Old school Swatch Watches

Các bạn truy cập vào HIM18.COM để đọc truyện MỚI nha. Mong các bạn ủng hộ website mới này!

Giết con chim nhại - phần 5

Bố Atticus đã yếu: ông gần năm mươi. Khi Jem và tôi hỏi tại sao bố lại già như thế, ông nói ông đã khởi đầu trễ, điều đó chúng tôi cảm thấy được phản ảnh trong những khả năng và nam tính của ông. Ông già hơn cha mẹ của những bạn học của chúng tôi nhiều, và chẳng có gì Jem hoặc tôi có thể nói về ông khi bạn học của chúng tôi nói, "Ba tao thế này... thế kia..."

Jem rất mê bóng bầu dục. Bố Atticus không bao giờ mệt đến độ không muốn chơi, nhưng khi Jem muốn dành bóng với ông, ông nói, "Bố quá già không làm vụ đó nổi, con trai."

Bố tôi không làm bất cứ thứ gì. Ông làm việc trong một văn phòng, không phải trong tiệm tạp phẩm. Bố Atticus không lái xe thùng cho hạt, ông không phải là cảnh sát trưởng, ông không làm nghề nông, làm việc trong một tiệm sửa xe, hoặc làm bất cứ điều gì có thể dấy lên lòng ngưỡng mộ của bất cứ ai.

Ngoài ra, bố còn đeo kính. Mắt trái ông gần như mù, và ông nói rằng mắt trái là lời nguyền dòng tộc của nhà Finch. Mỗi khi muốn nhìn rõ thứ gì, ông phải quay đầu và nhìn bằng mắt phải.

Bố không làm những việc mà ba của các bạn học tôi làm: ông không đi săn, không chơi phé hoặc câu cá hay uống rượu hay hút thuốc. Bố ngồi trong phòng khách và đọc.

Tuy nhiên, với những đặc điểm này bố tôi vẫn không được chìm khuất như chúng tôi mong ước: năm đó, cả trường xôn xao chuyện ông biện hộ cho Tom Robinson, không lời bàn tán nào lộ sự thán phục. Sau vụ đụng độ giữa tôi và Cecil Jacobs khi tôi cam kết theo chính sách làm kẻ hèn nhát, có lời đồn lan truyền rằng Scout Finch sẽ không đánh nhau nữa, nó bị ba nó cấm. Điều này hoàn toàn không đúng: tôi sẽ không chiến đấu công khai vì bố Atticus, nhưng gia đình là lĩnh vực riêng tư. Tôi sẽ chiến đống sống mái với bất kỳ ai từ đứa anh em họ ba đời trở lên. Francis Hancock chẳng hạn, biết điều đó.

Khi cho chúng tôi những khẩu súng hơi bố Atticus không dạy chúng tôi bắn. Chú Jack dạy chúng tôi những nguyên lý cơ bản của việc đó; chú nói bố Atticus không quan tâm đến súng ống. Ngày nọ bố Atticus nói với Jem, "Bố thích con bắn vào mấy cái thùng thiếc ở sân sau, nhưng bố biết con sẽ đi săn chim. Cứ bắn mọi con giẻ xanh mà con muốn, nếu con có thể bắn trúng, nhưng hãy nhớ giết một con chim nhại là tội lỗi."

Đó là lần duy nhất tôi từng nghe bố Atticus nói làm một điều gì đó là tội lỗi, và tôi hỏi cô Maudie về điều đó.

"Ba cháu đúng," cô nói. "Những con chim nhại chẳng làm gì ngoài việc đem tiếng hót đến cho ta thưởng thức. Chúng không phá hoại vườn tược của con người, không làm tổ trên những bẹ ngô, chúng không làm việc gì ngoài việc hót bằng cả trái tim cho chúng ta nghe. Điều đó lý giải tại sao giết một con chim nhại là tội lỗi."

"Cô Maudie, đây là một khu lâu đời, đúng không?"

"Từng có ở đây trước cả thị trấn này."

"Không, cháu muốn nói là những người ở khu phố chúng ta đều là người già, Jem và cháu là những đứa trẻ duy nhất ở quanh đây. Bà Dubose gần trăm tuổi con cô Rachel cũng già và cô và bố Atticus cũng vậy."

"Cô không cho năm mươi là quá già," cô Maudie nói một cách chua chát. "Cô chưa phải đi bằng xe lăn, đúng không? Mà ba cháu cũng vậy. Nhưng cô phải nói là Chúa đã đủ tử tế để thiêu rụi ngôi nhà mồ cũ của cô, cô đã già quá không chăm sóc nó được nữa..... có lẽ cháu đúng, Jeans Louise, đây là khu ổn định. Quanh cháu bọn trẻ không nhiều lắm, đúng không?"

"Phải, ở trường có."

"Ý cô là những người lớn trẻ. Cháu biết không, cháu may mắn. Cháu và Jem có lợi từ tuổi tác của ba cháu. Nếu ba cháu ba mươi cháu sẽ thấy cuộc sống hoàn toàn khác hẳn."

"Chắc vậy. Bố Atticus chẳng làm được cái gì..."

"Cháu sẽ ngạc nhiên đấy," cô Maudie nói. "Nhưng có cuộc sống bên trong ông ấy."

"Bố cháu có thể làm gì?"

"Ông ấy có thể làm di chúc cho ai đó chặt chẽ đến độ không ai làm rối được."

"Ôi trời..."

"Ồ, cháu có biết ba cháu là người chơi cờ giỏi nhất thị trấn này không? Ở Landing hồi bọn ta mới lớn, Atticus Finch có thể đánh bại bất kỳ ai ở hai bên bờ sông."

"Chúa ơi, cô Maudie, lần nào Jem với cháu cũng thắng bố hết."

"Đã đến lúc cháu nhận ra đó là bởi vì ông nhường tụi cháu. Bộ cháu không biết ông ấy còn chơi được thụ cầm Do Thái 1sao?"

Thành tựu khiêm tốn này thậm chí còn khiến tôi xấu hổi hơn về ông.

"Ờ...." Cô ấy nói.

"Ờ, cái gì, cô Maudie?"

"Ờ không. Không có gì..... có vẻ như thế cháu sẽ thấy tự hào về ông. Không phải ai cũng chơi được thụ cầm Do Thái. Bây giờ thì hãy tránh đường cho các thợ cưa. Tốt hơn cháu nên về nhà. Cô còn bận mấy khóm đỗ quyên và không trông chừng cháu được. Cây gỗ có thể rớt trúng cháu đó."

Tôi bước ra sân sau và thấy Jem đang tích cực bắn vào một cái thùng thiếc, việc này có vẻ ngốc nghếch khi lũ giẻ xanh đầy quanh đó. Tôi trở ra sân trước và bận rộn hai giờ liền với việc xây dựng những công sự phức tạp ở cạnh hàng hiên, gồm một lốp xe, một thùng đựng cam, giỏ mây đựng quần áo giặt, những chiếc ghế ở hiên nhà, và một lá cờ Mỹ nhỏ mà Jem lấy trong một hộp bắp rang cho tôi.

Khi bố Atticus về nhà ăn trưa ông thấy tôi đang khum người nhắm sang bên kia đường. "Con bắn vào cái gì vậy?"

"Mông của cô Maudie."

Bố Atticus quay sang và thấy mục tiêu bề thế của tôi đang cúi xuống những bụi cây của cô. Ông lật mũ ra sau và băng qua đường. "Maudie," ông gọi, "tôi nghĩ tốt hơn tôi nên cảnh báo cô. Cô đang trong tình trạng nguy hiểm đáng báo động đấy."

Cô Maudie đứng thẳng dậy và nhìn về phía tôi. Cô nói, "Atticus, anh đúng là quỷ sứ dưới địa ngục."

Khi quay về, bố bảo tôi dẹp trò chơi này đi. "Đừng để bố thấy con nhắm cây súng này vào bất cứ ai lần nữa."

Tôi ước gì bố tôi là quỷ sứ dưới địa ngục. Tôi kể lể chuyện này với Calpurnia. "Ông Finch hả? Ông ta có thể làm rất nhiều chuyện."

"Như chuyện gì?" Tôi hỏi.

Calpurnia gãi đầu. "Tôi không biết rõ lắm," bà nói.

Jem làm chuyện này rõ ràng hơn khi anh hỏi bố Atticus có phải đấu tranh cho các tín hữu Giám lý không và bố Atticus nói ông sẽ chuốc vạ vào thân nếu làm như vậy, ông đã quá già cho loại việc như thế. Những tín hữu Giám lý đang cố trả hết tiền thế chấp nhà thờ của họ và đã thách thức các tín hữu Baptist chơi một trận bóng bầu dục chạm 2. Mọi ông bố trong thị trấn đều chơi, trừ bố Atticus. Jem nói thậm chí anh không muốn đi, nhưng anh không cưỡng lại được môn bóng bầu dục ở bất cứ hình thức nào, và anh đứng rầu rĩ trên đường biên với bố Atticus và tôi theo dõi bố của Cecil Jacobs ghi điểm cho đội Baptist.

Một thứ Bảy tôi và Jem quyết định xách súng hơi đi thám hiểm xem liệu chúng tôi có tìm được con thỏ hay con sóc nào không. Chúng tôi đã đi cách nhà Radley khoảng năm trăm thước thì tôi nhận ra Jem đang nhìn cái gì đó dọc con đường. Anh quay đầu và nhìn bằng khóe mắt.

"Anh đang nhìn gì vậy?"

"Con chó già tuốt đằng kia kìa," anh nói.

"Đó là con Tim Johnson già, đúng không?"

"Phải."

Tim Johnson là tài sản của ông Harry Johnson, người lái xe buýt Mobile và sống ở mé Nam thị trấn. Tim là con chó săn chim màu gan gà, con vật cưng của Maycomb.

"Nó làm gì vậy?"

"Tao không biết, Scout. Tụi mình nên về thôi."

"Này Jem, trời mới tháng Hai."

"Tao không quan tâm, tao sẽ nói với Calpurnia."

Chúng tôi chạy về nhà và vào bếp.

"Calpurnia," Jem nói, "bà có thể bước ra vỉa hè một chút không?"

"Chi vậy, Jem? Tôi không thể ra đứng vỉa hè mỗi lần cậu muốn đâu."

"Có chuyện gì kỳ kỳ với con chó già đằng kia kìa."

Calpurnia thở dài. "Tôi không thể băng chân cho bất cứ con chó nào lúc này. Trong phòng tắm có một số bông băng, đi lấy và tự làm đi."

Jem lắc đầu. "Nó bệnh, Calpurnia à. Có chuyện gì kỳ kỳ với nó."

"Nó đang làm gì, cố cắn đuôi nó hả?"

"Không, nó làm giống vầy nè."

Jem ngáp ngáp giống như con cá vàng, rút vai và vặn vẹo thân mình. "Nó làm giống vậy, chứ không giống ý nó muốn."

"Cậu đang bịa chuyện với tôi hả, Jem Finch?" Giọng Calpurnia khô khốc.

"Không Calpurnia, con thề là không."

"Nó có chạy không?"

"Không, nó chỉ đi từ từ, chậm đến độ bà không thể nói là nó đi. Nó sắp tới đây rồi."

Bà rửa tay và theo Jem ra sân. "Tôi có thấy con chó nào đâu," bà nói.

Bà theo chúng tôi đi vượt qua nhà Radley và nhìn theo hướng Jem chỉ. Tim Johnson ở đằng xa không lớn hơn một cái chấm nhỏ, nhưng nó đã gần chúng tôi hơn. Nó đi thất thểu, như thể chân phải của nó ngắn hơn chân trái. Nó gợi tôi nhớ đến một chiếc xe hơi bị kẹt trong bãi cát.

"Nó đi khập khiễng," Jem nói.

Calpurnia nhìn, rồi nắm vai lôi chúng tôi về nhà. Bà đóng cánh cửa gỗ lại sau lưng chúng tôi, đi đến điện thoại và la lên. "Cho tôi nói chuyện với văn phòng ông Finch."

"Ông Finch!" bà la to. "Cal đây. Tôi thề có Chúa, có một con chó điên ở khu phố mình... nó đang đến đây, phải, thưa ông, nó là.... ông Finch, tôi cho nó là...... Tim Johnson già, phải.... thưa ngài.... phải.... phải ...."

Bà lắc đầu khi chúng tôi cố hỏi bà bố Atticus nói gì. Bà quay số điện thoại và nói, "Cô Eula May... tôi vừa nói chuyện với ông Finch, làm ơn đứng nối máy cho tôi nữa... nghe này, cô Eula May, cô có thể gọi điện cho cô Rachel và cô Stephanie Crawford và bất cứ ai có điện thoại trên phố này để báo cho họ biết có một con chó điên sắp đi ngang được không? Lẹ lên, cô!"

Calpurnia lắng nghe. "Tôi biết đang là tháng Hai, cô Eula May, nhưng khi thấy là tôi biết con chó nào điên liền. Nhanh lên đi cô!"

Calpurnia hỏi Jem, "Nhà Radley có điện thoại không?"

Jem nhìn danh bạ rồi nói không. "Dù sao thì họ cũng không ra ngoài đâu Cal."

"Tôi không quan tâm, tôi sẽ báo với họ."

Bà chạy ra hiên trước, tôi và Jem theo sát gót bà. "Cô cậu ở lại trong nhà!" bà hét lên.

Cả khu phố đã nhận được thông điệp của Calpurnia. Mọi cánh cửa gỗ trong tầm nhìn của chúng tôi đã được đóng chặt. Chúng tôi chẳng thấy bóng dáng gì của Tim Johnson. Chúng tôi nhìn theo Calpurnia đang chạy về phía nhà Radley, vén váy và tạp dề lên quá gối. Bà đến bên bậc thềm cửa trước và đập cửa. Chẳng ai trả lời và bà la to, "Ông Nathan, ông Arthur, có con chó điên đang đến! Chó điên đến!"

"Bà ta nên đi vòng ra phía sau," tôi nói.

Jem lắc đầu. "Giờ thì không ăn thua nữa rồi," anh nói.

Calpurnia nện vào cửa một cách vô ích. Không ai biết sự cảnh cáo của bà; không ai có vẻ nghe thấy gì.

Khi Calpurnia chạy nhanh đến hiên sau, một chiếc Ford đen chạy vào lối xe nhà tôi. Bố Atticus và ông Heck Tate bước ra.

Ông Heck Tate là cảnh sát trưởng của hạt Maycomb. Ông cao bằng bố Atticus nhưng gầy hơn. Ông có sống mũi dài, mang ủng có những lỗ xỏ dây kim loại lấp lánh, quần đi ủng và áo khoác. Thắt lưng của ông có gắn một hàng đạn. Ông mang cây súng trường nặng. Khi ông và bố Atticus đến hàng hiên, Jem mở cửa.

"Ở trong nhà đi, con trai," bố Atticus nói. "Nó đâu, Cal?"

"Giờ này lẽ ra nó phải ở đây rồi," Calpurnia nói, chỉ ra đường.

"Nó không chạy chứ?" Ông Tate hỏi.

"Không, thưa ngài. Nó đang trong giai đoạn co giật, ông Heck ạ."

"Mình phải săn tìm nó, hả Heck?" Bố Atticus nói.

"Tốt hơn mình nên chờ, ông Finch. Chúng thường đi theo đường thẳng, nhưng ông đâu nó chắc được. Nó có thể đi theo đường cong... Hy vọng nó đã quẹo hoặc đi thẳng vào sân sau nhà Radley. Mình chờ một lát đi."

"Tôi không nghĩ nó vào được sân nhà Radley. Hàng rào sẽ chặn nó lại. Chắc nó đi theo đường lộ..."

Tôi nghĩ bọn chó điên là sùi bọt mép, phóng hết tốc lực, nhảy lên và lao vào cổ họng, và tôi nghĩ chúng làm vậy vào tháng Tám. Nếu Tim Johnson phản ứng kiểu đó, chắc tôi sẽ ít sợ hơn.

Chẳng có gì rợn người hơn một con phố vắng ngắt đang nằm chờ. Cây cối lặng im, bọn chim nhại bặt tiếng, các thợ cưa nhà cô Maudie đã biến mất. Tôi nghe ông Tate khịt mũi rồi hắt hơi. Tôi thấy ông đưa súng lên kẹp vào khuỷu tay. Tôi thấy khuôn mặt của cô Stephanie Crawford lộ ra ở ô kính cửa trước nhà cô. Cô Maudie xuất hiện và đứng cạnh cô. Bố Atticus gác chân lên thanh ngang của chiếc ghế và chậm rãi chà bàn tay dọc bên đùi.

"Nó kìa," ông nói nhẹ nhàng.

Tim Johnson hiện ra, đi liêu xiêu theo mé trong của đoạn đường vòng song song với nhà Radley.

"Nhìn nó kìa," Jem thì thào. "Ông Heck nói chúng đi theo đường thẳng. Thậm chí nó không đi theo con đường được nữa."

"Trông nó bệnh hoạn quá chừng," tôi nói.

"Để bất cứ thứ gì ngay trước mặt nó là nó nhảy thẳng vô liền."

Ông Tate đặt tay lên trán và chồm tới. "Nó bị rõ ràng rồi, ông Finch."

Tim Johnson tiến tới rất chậm, nhưng nó không đùa giỡn hoặc ngửi cành lá, có vẻ như nó chăm chú theo một hướng đi và bị đẩy bởi một lực vô hình về phía chúng tôi. Chúng tôi có thể thấy nó rùng mình như một con ngựa đang xua ruồi; hàm của nó há ra rồi ngậm lại; nó ngoẹo đầu sang một bên, nhưng đang bị đẩy dần dần về phía chúng tôi.

"Nó đang tìm chỗ để chết," Jem nói.

Ông Tate quay sang. "Còn lâu nó mới chết, Jem, nó còn chưa bắt đầu đi tìm nữa kìa."

Tim Johnson đã tới chỗ con đường nhánh chạy trước nhà Radley, và những gì còn sót lại trong đầu óc khốn khổ của nó khiến nó ngừng lại và có vẻ cân nhắc không biết đi đường nào. Nó bước do dự vài bước rồi ngừng ngay trước cổng nhà Radley; rồi nó cố quay người, nhưng coi bộ rất khó khăn.

Bố Atticus nói, "Nó đang trong tầm bắn đó Heck. Anh nên xử lý nó trước khi nó quẹo xuống đường nhánh... có Chúa mới biết ai đang ở trong góc đường đó. Vào trong đi, Cal."

Calpurnia mở cửa lưới, đóng chốt lại sau lưng bà, rồi lại mở chốt ra và cài vào móc cửa. Bà cố chặn tôi với Jem bằng thân người bà, nhưng bọn tôi nhìn ra qua nách bà.

"Hạ nó đi, ông Finch." Ông Tate nói và trao khẩu súng trường cho bố Atticus; tôi và Jem gần muốn xỉu.

"Đừng phí thời gian, Heck," bố Atticus nói. "Làm đi."

"Ông Finch, đây là công việc một-phát."

Bố Atticus quyết liệt lắc đầu, "Đừng cứ đứng ngây ra đó, Heck! Nó không chờ anh cả ngày đâu...."

"Vì Chúa, ông Finch, nhìn chỗ nó đứng kìa! Bắn hụt là đạn bay thẳng vào nhà Radley đó! Tôi không bắn được ngon lành như thế và anh biết mà!"

"Tôi đã không bắn súng ba mươi năm rồi...."

Ông Tate gần như ném khẩu súng trường vào bố Atticus, "Tôi cảm thấy rất thoải mái nếu như anh bắn lúc này," ông ta nói.

Với cảm giác bối rối, tôi với Jem nhìn bố tôi cầm khẩu súng lên và bước ra ngay giữa đường. Ông đi nhanh, nhưng tôi nghĩ ông di chuyển giống như người lặn dưới nước: thời gian chậm lại tới mức gây buồn nôn.

Khi bố Atticus nâng kính lên Calpurnia lầm bầm, "Cầu Chúa phù hộ ông," và đưa hai tay ôm lấy má.

Bố Atticus đẩy kính lên trán; nó trượt xuống, và ông để nó rớt xuống đường. Trong im lặng, tôi nghe tiếng nó bể. Bố Atticus chà sát mắt và cằm. Chúng tôi thấy ông chớp mắt lia lịa.

Trước cổng nhà Radley, Tim Johnson đã quyết định với mớ thần kinh còn sót lại trong đầu nó. Sau cùng nó quay người, và tiếp tục lộ trình ban đầu hướng về phía nhà chúng tôi. Nó bước tới hai bước, rồi dừng lại và ngỏng đầu lên. Chúng tôi thấy thân thể nó cứng ngắc.

Với những động tác quá nhanh có vẻ như xảy ra đồng thời, bàn tay của bố Atticus kéo mạnh cần lên đạn trong khi ông đưa khẩu súng lên vai.

Khẩu súng nổ vang. Tim Johnson nhảy dựng, đổ phịch xuống và co rúm thành một đống màu nâu lẫn trắng trên lề đường. Nó không biết cái gì đã đâm trúng nó.

Ông Tate phóng khỏi hàng hiên và chạy tới nhà Radley. Ông dừng trước con chó, ngồi xổm xuống, xoay người và gõ ngón tay lên trán chỗ trên mắt trái ông, "Ông bắn hơi chệch sang phải, Finch," ông ta kêu lên.

"Luôn luôn vậy," bố Atticus đáp. "Nếu được chọn, tôi sẽ xài một cây súng bắn đạn chài."

Ông cúi xuống nhặt kính lên, nghiền nát tròng kính bị vỡ dưới gót chân, đi tới chỗ ông Tate và đứng nhìn xuống xác Tim Johnson.

Từng cánh cửa mở ra, và khu phố chầm chậm hoạt động trở lại. Cô Maudie đi xuống những bậc thềm cùng cô Stephanie Crawford.

Jem đớ người. Tôi nhéo một phát thúc anh ấy đi ra, nhưng khi bố Atticus thấy chúng tôi đến gần, ông nói. "Ở yên đó."

Khi ông Tate và bố Atticus trở lại sân, ông Tate mỉm cười. "Tôi sẽ kêu Zeebo hốt nó đi," ông nói. "Anh đâu có quên nhiều, Finch. Người ta nói nó không bao giờ rời anh."

Bố Atticus im lặng.

"Bố Atticus?" Jem nói.

"Gì?"

"Không có gì."

"Tôi chứng kiến hết, Finch Một-Phát."

Bố Atticus quay sang đối mặt với cô Maudie. Họ nhìn nhau mà không nói gì, và bố Atticus bước vào xe ông cảnh sát trưởng. "Lai đây," ông nói với Jem. "Con đừng đến gần con chó đó, hiểu không? Đừng đến gần nó, nó chết nhưng vẫn nguy hiểm như khi còn sống vậy."

"Vâng, thưa bố," Jem nói. "Bố Atticus...."

"Gì, con trai?"

"Không có gì."

"Có chuyện gì mà cháu không nói được vậy, nhóc?" Ông Tate hỏi, vười với Jem. "Bộ cháu không biết ba cháu là...."

"Thôi đi, Heck," bố Atticus nói, "mình quay lại thị trấn đi."

Khi họ lái xe đi, Jem và tôi đi đến bậc thềm trước nhà cô Stephanie Crawford. Chúng tôi ngồi chờ Zeebo đến với xe chở rác.

Jem ngồi trong trạng thái bối rối đờ đẫn, và cô Stephanie nói, "Ô, ô, ô, ai lại nghĩ có chó điên vào tháng Hai chứ, có lẽ nó không điên, chắc nó chỉ mới khùng thôi. Cô ghét phải thấy khuôn mặt của Harry Johnson khi ông ta vừa chạy xong chuyến tài ở Mobile và biết được Atticus Finch đã bắn con chó của ông ta. Cá là nó đầy bọ chét từ đâu đó..."

Cô Maudie nói cô Stephanie sẽ ăn nói theo giọng khác nếu Tim Johnson vẫn đang đi dài trên phố, rằng họ sẽ sớm tìm ra, họ sẽ gửi đầu nó đến Montgomery.

Jem trở nên ăn nói mơ hồ, "Mày thấy không, Scout? Mày có thấy bố đứng ngay đó không?...... rồi đột nhiên bố dãn người ra, trông cứ như cây súng đó là một phần cơ thể bố... và bố làm sao nhanh thế, giống như..... tao thì phải nhắm cả mười phút mới bắn trúng một cái gì đó...."

Cô Maudie cười một cách ranh mãnh. "Giờ thì, cô Jean Louise," cô nói, "vẫn còn nghĩ là ba cháu không làm được cái gì nữa không? Vẫn còn xấu hổ về ông hả?"

"Dạ không," tôi nói lí nhí.

"Bữa đó quên nói với cháu rằng ngoài việc chơi thụ cầm Do Thái, Atticus Finch còn là tay súng cừ nhất hạt Maycomb vào thời của ông."

"Tay súng cừ..." Jem lặp lại.

"Đúng vậy đó, Jem Finch. Chắc bây giờ cháu sẽ đổi giọng điệu của cháu ngay. Đúng ý tưởng đó, bộ cháu không biết biệt danh của ông ấy là Một-Phát khi còn trai trẻ sao? Ở Landing, khi mới lớn, nếu ông ấy bắn mười lăm phát mà trúng được mười bốn con bồ câu là ông ấy đã phàn nàn rằng mình lãng phí đạn."

"Bố chẳng hề hé môi chuyện đó," Jem lầm bầm.

"Không hề hé môi về chuyện đó hả?"

"Không, thưa cô."

"Không biết sao bây giờ bố không đi săn nữa," tôi nói.

"Có lẽ cô có thể cho cháu biết," cô Maudie nói. "Dù ba cháu có bất cứ cái gì, thì trong tâm, ông đã là người văn minh. Thiện xạ là món quà của Chúa, một tài năng... ô, cháu phải thực hành để hoàn thiện nó, nhưng việc bắn súng khác việc chơi đàn dương cầm hoặc cái gì giống vậy. Cô nghĩ có lẽ ông đặt súng xuống khi ông nhận ra Chúa đã cho ông một lợi thế thiếu công bằng so với hầu hết những sinh vật khác. Cô đoán ông quyết định không bắn cho đến khi bị buộc phải bắn, và hôm nay ông đã phải làm thế."

"Coi bộ bố sẽ tự hào về chuyện đó," tôi nói.

"Con người có đầu óc sáng suốt thì không bao giờ tự hào về tài năng của mình," cô Maudie nói.

Chúng tôi thấy Zeebo lái xe đến. Anh ta lấy trong thùng xe ra cái chĩa và cẩn thận nâng Tim Johnson lên. Anh ta hất con chó vào xe tải, sau đó đổ chất gì đó từ một cái bình to xuống khắp chỗ Tim nằm chết. "Đừng tới gần chỗ này trong ít lâu nghe," anh ta kêu lên.

Khi về nhà tôi nói với Jem tụi tôi có chuyện để kể trong trường vào thứ Hai rồi, Jem quay sang tôi.

"Đừng nói gì về chuyện này, Scout," anh nói.

"Cái gì? Chắc chắn là em sẽ kể. Đâu phải bố đứa nào cũng là tay súng cừ nhất hạt Maycomb đâu."

Jem nói, "Tao cho là bố muốn tụi mình biết chuyện đó, bố đã kể với mình rồi. Nếu bố tự hào về chuyện đó, bố đã nói với mình rồi."

"Có lẽ bố quên mất chuyện đó," tôi nói.

"Không đâu, Scout, đó là chuyện mày không hiểu được. Bố Atticus thì già thiệt, nhưng tao sẽ không quan tâm nếu bố không làm được bất cứ việc gì.... Tao không cần biết nếu như bố không làm được một việc quái gì đó."

Jem nhặt một hòn đá và hân hoan ném vào nhà xe. Chạy đuổi theo nó, anh kêu với lại, "Bố Atticus là một quý ông, giống như tao!"

--------------------------------

1. Jews harp: nhạc cụ nhỏ xíu, gọn trong lòng bàn tay, được cầm trong miệng và tạo âm thanh bằng cách gẩy ngón tay vào một lưỡi gà kim loại.

2. Touch foolball: một biến thể của dòng bầu dục nhằm làm cho nó ít bạo lực hơn bằng cách thay vì giành bóng thì người ta chỉ cần chạm vào bóng rồi chạy.

Khi chúng tôi còn nhỏ, jem và tôi giới hạn những hoạt động của mình trong khu phố phía Nam, nhưng khi tôi học lớp hai được ít lâu và việc chòng ghẹo Boo Radley trở thành lạc hậu, khu vực kinh doanh của Maycomb lôi kéo chúng tôi thường xuyên đi ngược về thị trấn qua khu đất của bà Henry Lafayette Dubose. Không thể xuống thị trấn mà không đi ngang qua nhà bà trừ khi chúng tôi muốn đi bộ vòng thêm cả dặm. Những cuộc chạm trán nhỏ trước đây với bà không để lại cho tôi khao khát được gặp lại bà nữa, nhưng Jem nói tới lúc nào đó tôi phải lớn lên.

Bà Dubose sống một mình nếu không kể một cô gái Da đen phục vụ thường xuyên, cách nhà tôi hai căn, trong một ngôi nhà có những bậc thềm dốc phía trước và một lối đi có mái che nối giữa hai khu nhà. Bà rất già; hầu như cả ngày bà nằm trên giường và sau đó ngồi trên xe lăn. Người ta đồn rằng bà giữ một khẩu súng lục CSA 1 giấu trong mớ khăn choàng vai và khăn quấn cổ.

Jem và tôi ghét bà. Nếu bà ngồi ở hàng hiên khi chúng tôi đi qua, chúng tôi sẽ bị soi mói mọi chỗ bởi cái nhìn phẫn nộ của bà, bị thẩm vấn thẳng tay về cách cư xử của chúng tôi, và được cho một dự đoán u ám về tình cảnh chúng tôi sẽ rơi vào khi lớn lên, vốn luôn luôn chẳng ra gì cả. Từ lâu tụi tôi đã từ bỏ ý tưởng đi ngang nhà bà ở phía bên kia đường; việc đó chỉ khiến bà cao giọng lên và cho cả khu phố cùng biết.

Không thể làm gì để bà vui lòng. Nếu tôi vui vẻ nói với bà, "Hê, bà Dubose," tôi sẽ nhận câu trả lời., "Đừng có nói hê với ta, đồ con gái xấu xa! Cháu phải nói xin chào, bà Dubose!"

Bà hung dữ. Có lần bà nghe Jem gọi bố chúng tôi là "Atticus" và phản ứng của bà cứ như sắp đột quỵ. Ngoài việc bảo chúng tôi là những đứa đần độn láu cá nhất, xấc xược nhất từng đi ngang qua nhà bà, bà còn bảo rằng thật tội nghiệp cho chúng tôi vì bố Atticus không tái hôn sau khi mẹ tôi mất. Một quý cô dễ thương hơn người mẹ quá cố của chúng tôi thì chưa hề có trên đời, bà nói, và thật đau lòng khi thấy cái kiểu Atticus Finch để cho con cái của cô ấy sống buông tuồng. Tôi không nhớ về mẹ mình, nhưng Jem thì có - đôi khi anh kể cho tôi nghe về mẹ - và anh giận điên người khi bà Dubose bắn cho chúng tôi thông điệp này.

Jem, đã sống sót sau vụ Boo Radley, vụ con chó điên, và những nỗi kinh hoàng khác, đã kết luận rằng thật hèn nhát khi dừng ở bậc thềm trước nhà cô Rachel và đợi, nên đã ra lệnh rằng chúng tôi phải chạy đến tận góc phố bưu điện mỗi chiều để đón bố Atticus đi làm về. Rất nhiều tối bố Atticus thấy Jem tức tối vì những điều bà Dubose phát biểu khi chúng tôi đi qua.

"Đừng chấp, con trai," bố Atticus thường nói. "Bà ấy đã già và còn bị bệnh. Con hãy ngẩng cao đầu và hành xử như một quý ông. Cho dù bà ta nói gì với con đi nữa, việc của con là không để cho bà ta làm con phát điên lên."

Jem thường cãi bà ta chẳng ốm yếu gì lắm, vì bà ta cứ hò hét như thế. Khi bố con chúng tôi đến gần nhà bà, bố Atticus thường nhấc mũ ra, ân cần vẫy tay và nói, "Chào buổi tối, bà Dubose! Tối nay trông bà như một bức tranh."

Tôi chưa từng nghe bố Atticus nói bà giống như bức tranh vẽ cái gì. Ông thường kể cho bà nghe tin tức ở tòa án, và nói thêm ông hết lòng hy vọng bà sẽ có một ngày mai tốt đẹp. Rồi bố đội mũ lên, kiệu tôi lên vai ngay trước mặt bà, và chúng tôi về nhà trong bóng chiều chập choạng. Những lúc như thế tôi đã nghĩ bố tôi, người ghét súng ống và chưa hề dự cuộc chiến nào, là người đàn ông can đảm nhất trên đời.

Ngày sau hôm sinh nhật thứ mười hai của Jem, tiền của anh cứ như đang bốc cháy trong túi, vì vậy tụi tôi vào thị trấn lúc đầu giờ chiều. Jem nghĩ anh có đủ tiền mua một động cơ hơi nước thu nhỏ cho anh và một cây gậy thể dục dụng cụ cho tôi.

Từ lâu tôi đã để mắt đến cây gậy đó: nó ở cửa hàng V.J.Elmore, được tô điểm bằng những hạt cườm lấp lánh và kim tuyến, đề giá mười bảy xu. Hồi đó tham vọng cháy bỏng của tôi là lớn lên và múa gậy với ban nhạc Trung học hạt Maycomb. Sau khi phát triển tài năng đến độ tôi có thể tung một khúc cây lên và hầu như chụp được nó khi rớt xuống, tôi đã khiến Calpurnia cấm không cho vào nhà mỗi khi bà thấy tôi cầm một cây gậy trên tay. Tôi cảm thấy mình có thể khắc phục khuyết điểm này với một cây gậy thể dục thực sự, và tôi nghĩ Jem thật hào phóng khi mua cho tôi một cây gậy như thế.

Bà Dubose đã trụ ở hiên nhà khi chúng tôi đi ngang.

"Hai đứa đi đâu vào giờ này hả?" Bà la to. "Chắc là trốn học chứ gì. Ta sẽ gọi điện cho ông ta biết!" Bà đặt tay lên bánh xe lăn và bày ra khuôn mặt thật hoàn hảo của mình.

"Ô, hôm nay là thứ Bảy, bà Dubose," Jem nói.

"Thứ Bảy thì có gì khác đâu," bà nói một cách bí ẩn, "ta tự hỏi không biết ba tụi bay có biết tụi bay đi đâu không?"

"Bà Dubose, tụi cháu đã tự đi xuống thị trấn từ hồi tụi cháu cao cỡ này," Jem giơ bàn tay ở khoảng sáu tấc cách mặt lề đường.

"Tụi bay đừng có nói dối ta!" Bà gào lên. "Jeremy Finch, Maudie Atkinson nói với ta sáng nay cháu làm sụm giàn nho của cô ấy. Cô ta sẽ méc ba cháu, rồi cháu sẽ ước gì mình không bao giờ thấy ánh sáng ban ngày nữa! Nếu cháu không bị tống tới trường cải huấn trước tuần sau, thì tên ta sẽ không phải là Dubose nữa!"

Jem, vốn chưa hề đến gần dàn nho của cô Maudie từ mùa hè rồi, và cũng biết cô Maudie sẽ không nói lại với bố Atticus nếu anh có làm gãy, đã đưa ra những lời phủ nhận chung.

"Đừng có cãi ta!" Bà Dubose hét lên. "Còn cháu..." Bà chỉ ngón tay bi viêm khớp vào tôi - "cháu làm gì trong bộ áo liền quần đó? Cháu phải mặc váy với áo lót, quý cô ạ! Lớn lên cháu sẽ làm bồi bàn nếu không có ai đó thay đổi cung cách của cháu - một đứa nhà Finch làm bồi bàn ở quán cà phê O.K- à ha!"

Tôi kinh khiếp. Quán cà phê O.K là một cơ sở âm u ở phía Bắc quảng trường. Tôi nắm lấy tay Jem nhưng anh lắc tay tôi buông ra.

"Xem kìa, Scout," anh thì thào. "Đừng thèm chú ý đến bà ta, cứ ngẩng cao đầu và làm một quý ông coi ."

Nhưng bà Dubose không buông tha chúng tôi, "Không chỉ là một đứa nhà Finch làm bồi bàn mà còn là một Finch trong tòa án bênh vực họn mọi đen!"

Jem cứng người. Phát đạn của bà Dubose đã trúng đích và bà ta biết điều đó.

"Đúng vậy đó, thế giới này đi đến đâu khi một người nhà họ Finch chống lại người nuôi dưỡng nó? Ta sẽ cho mấy đứa biết!" Bà ta đặt tay lên miệng. Khi bà rút tay xuống, nó kéo rê một sợi nước dãi dài màu bạc. "Ba mấy đứa không hơn gì bọn mọi đen và thứ cặn bã mà ông ta phục vụ!"

Jem đỏ mặt. Tôi kéo tay áo anh, và một bài diễn văn đả kích về sự thoái hóa đạo đức của gia đình tôi đuổi theo chúng tôi dài theo vỉa hè, và tiền đề chủ yếu là cho rằng phần nửa nhà họ Finch đều ở trong nhà thương điên, nhưng nếu mẹ chúng tôi còn sống, chúng tôi chắc sẽ không đi đến một tình trạng như thế.

Tôi không chắc Jem phẫn nộ cái gì nhất, nhưng tôi tức tối trước sự đánh giá của bà Dubose về vấn đề sức khỏe tâm thần của gia đình tôi. Tôi hầu như đã quen nghe những lời thóa mạ nhắm vào bố Atticus. Nhưng đây là lời thóa mạ đầu tiên đến từ người lớn. Trừ những nhận xét của bà về bố Atticus, cuộc công kích của bà Dubose chỉ là thường lệ. Có phảng phất một dấu hiệu mùa hè trong không khí - trong bóng râm khí trời mát mẻ, còn nắng thì ấm, có nghĩa là thời kỳ thoải mái đang tới gần: không phải đi học và có Dill.

Jem đã mua động cơ hơi nước và chúng tôi đến cửa hàng Elmore mua cây gậy cho tôi. Jem không vui trước món đồ anh mới mua; anh nhét nó vào túi và lặng lẽ đi về nhà cùng tôi. Trên đường về nhà tôi suýt va phải ông Link Deas, ông nói, "Cẩn thận, Scout!" khi tôi lỡ mất một cú tung gậy, khi chúng tôi đến gần nhà bà Dubose cây gậy của tôi đã bị lem luốc vì rơi xuống đất quá nhiều lần.

Bà không có trên hiên nhà.

Nhiều năm sau, đôi khi tôi tự hỏi cái gì đã khiến Jem làm điều đó, cái gì đã khiến anh phá bỏ sự trói buộc của câu "Con là một quý ông, con trai," và cụm từ về sự chính trực tự giác mà anh vừa mới nhập vào. Jem có lẽ đã chịu đựng nhiều lời đồn đại ngốc nghếch về việc bố Atticus đã biện hộ cho bọn mọi đen như tôi đã chịu đựng, và tôi đương nhiên cho rằng anh đã kiềm chế - anh có tính khí trầm tĩnh tự nhiên và là một ngòi nổ chậm. Tuy nhiên, vào thời điểm đó tôi nghĩ cách giải thích duy nhất cho hành động của anh là anh chợt nổi điên trong vài phút.

Những gì Jem đã làm và việc tất nhiên tôi cũng sẽ làm nếu tôi không bị bố Atticus cấm, mà trong đó tôi cho là có cả việc không gây gổ với những bà già khó ưa. Chúng tôi vừa tới cổng nhà bà thì Jem chộp lấy cây gậy của tôi và chạy vung loạn xạ lên những bậc thềm vào sân trước nhà bà Dubose, quên hết mọi điều bố Atticus đã nói, quên rằng bà ta có cất một khẩu súng lục dưới đống khăn choàng, quên rằng nếu bà Dubose bắn hụt, thì có cô hầu gái Jessie của bà chắc chắn không bắn hụt.

Anh không bình tĩnh lại được cho đến khi đập gãy ngọn mọi bụi hoa trà của bà Dubose, cho đến khi mặt đất đầy những nụ và lá xanh. Anh kê cậy gậy của tôi vào đầu gối, bẻ làm hai và ném nó xuống đất.

Lúc đó tôi là hét ỏm tỏi. Jem nắm tóc tôi, nói anh không quan tâm, anh sẽ làm lần nữa nếu anh có cơ hội, và nếu tôi không câm họng anh sẽ nhổ từng sợi tóc tôi ra. Tôi không im miệng và anh đá tôi. Tôi mất thăng bằng và té dập mặt xuống đất. Jem nâng tôi dậy một cách thô bạo nhưng trông có vẻ anh đã hối lỗi. Không có gì để nói.

Chúng tôi không đi đón bố Atticus về nhà vào tối đó. Chúng tôi lẩn trốn trong nhà bếp cho đến khi Calpurnia xua chúng tôi ra. Bằng những phép thuật nào đó mà dường như Calpurnia biết hết mọi chuyện. Bà không thực hiện được vai trò là thuốc giảm đau hữu hiệu, nhưng bà cho Jem một cái bánh bơ nướng nóng mà anh bẻ chia tôi phân nửa. Nó có vị như quả bông.

Chúng tôi đi ra phòng khách. Tôi cầm lên một tờ tạp chí bóng bầu dục, tìm ra một ảnh chụp Dixie Howell, chỉ nó cho Jem coi và nói, "Tay này trông giống anh." Đó là điều hay ho nhất tôi nghĩ ra để nói với anh, nhưng chẳng có tác dụng gì. Anh ngồi cạnh cửa sổ, khum người trong chiếc ghế đu, cau có, chờ đợi. Ánh sáng ban ngày nhạt dần.

Hai kỷ địa chất sau chúng tôi mới nghe thấy tiếng đế giày của bố Atticus trên những bậc thềm trước nhà. Khung cửa lưới đóng sầm, một khoảng yên lặng - bố Atticus đang ở chỗ giá treo mũ trong tiền sảnh - và chúng tôi nghe ông gọi, "Jem!" Giọng ông giống một cơn gió mùa đông.

Bố Atticus bật ngọn đèn trần trong phòng khách và thấy chúng tôi ở đó, người cứng đờ. Một tay ông cầm cây gậy của tôi; núm tua vàng bẩn thỉu của nó kéo lê trên thảm. Ông chìa tay kia ra; trên đó là những búp hoa trà căng tròn.

"Jem," ông nói, "con là thủ phạm vụ này phải không?"

"Vâng, bố."

"Tại sao con làm vậy?"

Jem nói lí nhí, "Bà ta bảo bố biện hộ cho bọn mọi đen và lũ rác rưởi."

"Con làm chuyện này vì bà ta nói vậy à?"

Đôi môi Jem động đậy, nhưng câu, "Vâng, bố," hầu như không nghe được.

"Con trai, bố chắc chắn con đã bị những người xung quanh gây khó chịu về việc bố biện hộ cho bọn mọi đen, như con nói, nhưng làm một việc như thế này với một bà già bệnh tật là không tha thứ được. Bố thật lòng khuyên con bước ra ngoài và đi nói chuyện với bà Dubose," bố Atticus nói. "Rồi về thẳng nhà ngay."

Jem không nhúc nhích.

"Bố bảo đi ngay."

Tôi theo Jem ra khỏi phòng khách. "Quay lại đây," bố Atticus bảo tôi quay lại, tôi quay lại.

Bố Atticus cầm tờ Mobile Press lên và ngồi vào chiếc ghế đu Jem vừa rời đi. Dù cố gắng đến mấy, tôi cũng không thể hiểu làm sao ông có thể thản nhiên ngồi đó và đọc báo trong khi đứa con trai duy nhất của mình có nguy cơ bị giết bởi một di vật của quân đội miền Nam. Dĩ nhiên đôi khi Jem chọc giận tôi đến độ tôi muốn giết anh, nhưng rốt cuộc anh là tất cả những gì tôi có. Bố Atticus có vẻ không nhận ra điều này, hoặc nếu có nhận ra ông cũng không quan tâm.

Tôi ghét ông vì điều đó, nhưng khi gặp rắc rối bạn dễ thấy mệt: chỉ lát sau tôi đã rúc đầu vào lòng bố và đôi tay ông ôm lấy tôi.

"Con lớn quá hết ru được rồi," ông nói.

"Bố không quan tâm đến những gì xảy ra cho anh ấy," tôi nói. "Bố chỉ bắt anh ấy qua để nhận một phát đạn trong khi anh ấy chỉ làm một việc là bênh vực bố."

Bố Atticus kê cầm của ông lên đầu tôi. "Chưa đến lúc phải lo," ông nói. "Bố không hề nghĩ Jem là đứa mất bình tĩnh trước chuyện này - bố cứ nghĩ sẽ phải gặp nhiều rắc rối với con cơ."

Tôi nói dù sao tôi cũng không hiểu tại sao tụi tôi phải giữ bình tĩnh, không ai tôi quen biết ở trường phải giữ bình tĩnh về bất cứ chuyện gì.

"Scout," bố Atticus nói, "đến hè con còn phải giữ bình tĩnh trước những điều còn tệ hại hơn.... vậy là không công bằng cho cả Jem và con, bố biết vậy, nhưng nhiều khi mình phải cố làm tốt trong mọi chuyện và cả trong cách chúng ta ứng xử vào những lúc khó khăn.... Ồ, bố chỉ có thể nói là, khi con và Jem lớn khôn, có thể con sẽ nhìn lại chuyện này với lòng nhân hậu và cảm xúc nào đó rằng bố đã không làm con thất vọng. Vụ kiện này, vụ của Tom Robinson, là một chuyện đánh vào cốt lõi của lương tâm con người - Scout, bố không thể đến nhà thờ và thờ phụng Chúa nếu bố không cố giúp anh ta."

"Bố Atticus, bố hẳn là sai....."

"Sai thế nào?"

"Hầu hết mọi người có vẻ nghĩ rằng họ đúng còn bố sai....."

"Chắc chắn họ có quyền nghĩ vậy và họ có quyền nhận được sự tôn trọng dành cho ý kiến của họ," bố Atticus nói, "nhưng trước khi bố sống được với người khác bố phải sống với chính mình. Có một thứ không tuân theo nguyên tắc đa số, đó là lương tâm của con người."

Khi Jem trở về, anh thấy tôi vẫn nằm trong lòng bố Atticus. "Sao, con trai?" Bố Atticus nói. Ông nhấc tôi dậy đặt xuống đất và tôi bí mật dò xét Jem. Anh có vẻ vẫn còn nguyên vẹn nhưng mặt anh có nét kỳ cục. Có lẽ bà đã cho anh một liều thuốc xổ.

"Con đã dọn dẹp sạch sẽ cho bà và nói con rất tiếc, nhưng con không hối tiếc, rồi con nói con sẽ trồng lại chúng kể từ thứ Bảy và cố chăm sóc cho chúng lớn lại."

"Thật vô nghĩa lý khi con nói rất tiếc mà con không thấy hối tiếc," bố Atticus nói. "Jem, bà ấy đã già lại bệnh. Con không thể buộc bà ấy chịu trách nhiệm cho những gì bà ấy nói và làm. Dĩ nhiên bố thà để bà ấy nói điều đó với bố hơn là với hai đứa con, nhưng mình đâu phải lúc nào cũng được quyền chọn lựa."

Jem có vẻ bị mê hoặc bởi một đóa hoa hồng trên tấm thảm. "Bố Atticus," Jem nói, "bà ấy muốn con đọc cho bà nghe."

"Đọc cho bà nghe?"

"Vâng. Bà muốn con đến mỗi tối sau giờ đi học về và mỗi thứ Bảy để đọc to cho bà nghe trong hai giờ. Bố Atticus, con nên làm không?"

"Chắc chắn rồi."

"Nhưng bà ấy muốn con làm vậy trong một tháng."

"Vậy con sẽ đọc trong một tháng."

Jem đặt ngón chân cái vào ngay giữa đóa hồng và ấn xuống đó. Cuối cùng anh nói, "Bố Atticus, ngoài vỉa hè thì không có gì nhưng bên trong thì....nó tối thui mà ớn da gà lắm. Có bóng đen với đủ thứ trên trần...."

Bố Atticus mỉm cười và cương quyết. "Điều đó sẽ hấp dẫn trí tưởng tượng của con. Cứ xem như con đang ở trong nhà Radley."

Chiều thứ Hai sau đó Jem và tôi trèo lên những bậc tam cấp dốc trước nhà bà Dubose và bước đến trước cửa. Jem thủ sẵn cuốn Ivanhoe và mớ kiến thức đầy đủ, gõ cánh cửa thứ hai bên trái.

"Bà Dubose?" Anh gọi.

Jessie mở cánh cửa gỗ và mở chốt cửa lưới.

"Em hả, Jem Finch?" Cô hỏi. "Em còn dẫn em gái theo nữa à. Tôi không biết....."

"Cho cả hai đứa vô đi, Jessie," bà Dubose nói. Jessie cho tụi tôi vào rồi bỏ đi xuống nhà bếp.

Một mùi ngột ngạt phả vào chúng tôi khi chúng tôi bước qua ngưỡng cửa, một mùi tôi gặp nhiều lần trong những ngôi nhà xám xịt mục nát vì mưa, nơi có những ngọn đèn dầu, những cái gáo múc nước, và vải trải giường nội hóa ố màu. Nó luôn khiến tôi sợ, chờ đợi, và cảnh giác.

Trong góc phòng có cái giường bằng đồng, bà Dubose đang nằm trên đó. Tôi tự hỏi không biết có phải những hành động của Jem đã khiến bà phải nằm đó không, và trong giây lát tôi cảm thấy tiếc cho bà. Bà nằm dưới một đống chăn mền và trông rất thân thiện.

Có một cái bồn rửa tay mặt đá cẩm thạch cạnh giường bà; trên đó có một cái ly và cái thìa để trong ly, một ống bơm thụt, một hộp bông thấm nước, và một đồng hồ báo thức bằng thép có ba chân bé xíu.

"Vậy là cháu đưa theo cô em gái bẩn thỉu của cháu đó hả?" Đó là lời chào hỏi của bà.

Jem nói lặng lẽ, "Em cháu không bẩn thỉu và cháu không sợ bà," dù tôi thấy hai đầu gối anh run.

Tôi đang chờ đợi một bài diễn văn chỉ trích, nhưng bà ta chỉ nói là, "Cháu bắt đầu đọc được rồi đó, Jeremy."

Jem ngồi xuống chiếc ghế mây và giở cuốn Ivanhoe ra. Tôi kéo một chiếc ghế khác và ngồi cạnh anh.

"Lại sát đây," bà Dubose nói. "Tới cạnh giường nè."

Chúng tôi kéo ghế tới. Đây là lần đầu tiên tôi tới gần bà đến thế, và điều tôi muốn làm nhất là kéo ghế trở lại.

Bà thật khủng khiếp. Mặt bà có màu áo gối bẩn, và khóe miệng bà loáng nước, nó chảy dần dần như một con sông băng xuống những nếp nhăn hằn sâu bao quanh cằm bà. Những vết tàn nhanh của tuổi già lấm tấm trên hai má, và đôi mắt đã mờ đục của bà có hai đồng tử đen nhỏ xíu. Hai bàn tay bà nổi u cục, những lớp biểu bì trùm lên các móng tay. Hàm răng giả của bà không nằm trong miệng, và môi trên của bà nhô ra; thỉnh thoảng bà kéo môi dưới lên tới hàm trên và kéo theo cái cằm. Việc này làm nước dãi chảy nhanh hơn.

Tôi không nhìn bà nhiều quá mức cần thiết. Jem lại mở cuốn Ivanhoe ra và bắt đầu đọc. Tôi cố theo dõi truyện anh đọc, nhưng anh đọc quá nhanh. Khi đến những chữ anh không biết, Jem bèn bỏ qua, nhưng bà Dubose thường phát hiện được và bảo anh đánh vần chúng. Jem đọc có lẽ được hai mươi phút, trong thời gian đó tôi nhìn vào bệ lò sưởi ấm bồ hóng, nhìn ra ngoài cửa sổ, bất cứ nơi đâu để không phải nhìn bà. Khi anh đọc tiếp, tôi nhận thấy những lần bắt lỗi của bà ít dần và khoảng cách thưa hơn, và Jem thậm chí đã bỏ lửng một câu. Bà không còn lắng nghe nữa.

Tôi nhìn về phía giường.

Có chuyện gì đó đã xảy ra với bà. Bà nằm ngửa, chăn đắp tận cằm. Chỉ thấy được đầu và vai bà. Đầu bà lắc chầm chậm từ bên này sang bên kia. Thỉnh thoảng bà há to miệng và tôi có thể thấy lưỡi bà giật giật nhẹ nhẹ. Nước bọt đọng lại trên môi bà; bà sẽ nhép chúng vào; rồi lại há miệng ra. Miệng bà như có sự tồn tại riêng của nó. Nó hoạt động riêng rẽ và tách khỏi phần còn lại của cơ thể, thò ra thụt vào, giống như một cái hang của bọn trai sò lúc thủy triều rút. Thỉnh thoảng nó lại thốt ra, "Pt," giống như một thứ chất sền sệt đang sắp sôi.

Tôi kéo tay áo Jem.

Anh nhìn tôi, rồi nhìn vào giường. Đầu bà lắc đều đặn về phía chúng tôi, và Jem hỏi, "Bà Dubose, bà ổn không?" Bà không nghe anh.

Đồng hồ reo lên và chúng tôi sợ cứng người. Một phút sau, thần kinh vẫn căng thẳng, Jem và tôi đã trở ra vỉa hè và hướng về nhà. Chúng tôi không bỏ chạy, Jessie tiễn chúng tôi về: trước khi đồng hồ hết dây thiều, cô đã vào phòng và đẩy Jem với tôi ra khỏi đó.

"Suỵt," cô nói, "hai đứa về đi."

Jem do dự ngay cửa.

"Đã đến cữ thuốc của bà," Jessie nói. Khi cửa đóng mạnh sau lưng chúng tôi, tôi thấy Jessie đi nhanh về phía giường bà Dubose.

Khi chúng tôi về đến nhà mới có ba giờ bốn mươi lăm, vì vậy Jem và tôi đã bóng qua lại ở sân sau cho đến giờ đi đón bố Atticus. Bố Atticus có hai cây bút chì màu vàng cho tôi và một tờ tạp chí bóng bầu dục cho Jem, mà tôi cho rằng đó là phần thưởng thầm lặng cho buổi đầu tiên chúng tôi ở bên bà Dubose. Jem kể cho ông nghe những gì xảy ra.

"Bà ấy có làm tụi con sợ không?" Bố Atticus hỏi.

"Không, bố," Jem nói, "nhưng trông bà ấy tởm lắm. Bà ta bị động kinh hay cái gì đó. Bà chảy nước dãi tùm lum."

"Bà không ngăn được chuyện đó. Khi người ta bệnh đôi khi người ta trông không được vừa mắt lắm."

"Bà ta làm con sợ," tôi nói.

Bố Atticus nhìn tôi qua cặp kính. "Con biết là con không phải đi với Jem mà."

Chiều hôm sau ở nhà bà Dubose cũng y như chiều hôm đầu, và ngày kế tiếp cũng vậy, cho đến khi dần dần hình thành một trình tự: mọi thứ sẽ bắt đầu một cách bình thường-nghĩa là, bà Dubose sẽ hành Jem về các đề tài ưa thích của bà, những bông hoa trà của bà và xu hướng thân mọi đen của bố chúng tôi; bà sẽ dần dần im lặng, rồi quên mất chúng tôi. Đồng hồ báo giờ sẽ reo, Jessie sẽ đưa chúng tôi ra, và những giờ còn lại trong ngày là của chúng tôi.

"Bố Atticus," một tối tôi nói, "chính xác thì kẻ yêu bọn mọi đen nghĩa là gì?"

Mặt bố Atticus nghiêm lại, "Bộ có người gọi con vậy hả?"

"Không, bố. Bà Dubose gọi bố như vậy. Mỗi chiều bà ta khỏi động bằng việc gọi bố như vậy. Giáng sinh rồi Francis cũng gọi bố như vậy, đó là lần đầu con nghe từ đó."

"Đó là lý do con nhảy xổ vào nó chứ gì?" Bố Atticus hỏi.

"Vâng, bố....."

"Vậy tại sao con hỏi bố nó nghĩa là gì?"

Tôi cố giải thích với bố Atticus rằng những gì Francis nói không làm tôi nổi sùng lên bằng cách nó nói câu đó. "Giống như nó nói mũi thò lò hay cái gì đó."

"Scout," bố Atticus nói, "kẻ-yêu-bọn-mọi-đen chỉ là một trong những từ ngũ không hàm ý gì cả-giống như mũi thò lò vậy. Nó khó giải thích ... những người ngu dốt, kém hiểu biết dùng nó khi họ nghĩ một ai đó ưa thích người Da đen và trên cả họ. Nó trở nên thông dụng với một số người như chúng ta, khi họ muốn có một từ ngữ phổ biến, xấu xí, để gán cho ai đó."

"Vậy thực sự bố không phải là kẻ-ưa-bọn-mọi-đen đúng không?"

"Chắc chắn bố là thế. Bố cố hết sức để yêu thương mọi người....Đôi khi bố cảm thấy khó khăn... bé con, không hề là sự xúc phạm khi bị gọi là thứ gì đó mà người ta nghĩ là một cái tên xấu. Nó chỉ cho con thấy người đó tội nghiệp làm sao, nó không làm tổn thương con. Vì vậy đừng để bà Dubose làm con xuống tinh thần. Bà ấy đã có đủ rắc rối riêng của mình rồi."

Một tháng sau vào một chiều khi Jem đang khó nhọc đọc Sir Walter Scout 2, như anh gọi ông ta, và bà Dubose đang sửa cho anh từng chút một, thì có tiếng gõ cửa. "Vào đi!" Bà gào lên.

Bố Atticus bước vào. Ông bước đến giường bắt tay bà Dubose. "Tôi đi làm về không thấy bọn trẻ," ông nói, "tôi nghĩ chúng còn ở đây."

Bà Dubose mỉm cười với ông. Dù có gắng đến mấy tôi cũng không thể hình dung ra làm sao bà có thể nói chuyện với ông khi bà có vẻ ghét ông đến thế. "Anh biết mấy giờ rồi chứ, Atticus?" Bà nói. "Chính xác là năm giờ mười bốn phút. Đồng hồ reo được định giờ là năm giờ ba mươi. Tôi muốn anh biết điều đó."

Bất chợt tôi nhận ra rằng mỗi ngày chúng tôi ở lại nhà bà Dubose lâu hơn, rằng đồng hồ reo này báo giờ trễ thêm vài phút mỗi ngày, và rằng bà đã động kinh được một hồi vào lúc nó reo. Hôm nay bà làm Jem tức tối gần hai tiếng vì không hề tính chuyện động kinh gì cả, và tôi cảm thấy mình bị mắc bẫy một cách tuyện vọng. Đồng hồ báo giờ là dấu hiệu cho sự phóng thích chúng tôi; nếu một ngày nào đó nó không reo, chúng tôi biết làm thế nào?

"Tôi có cảm giác rằng số ngày đọc của Jem đã hết," bố Atticus nói.

"Tôi nghĩ còn hơn một tuần nữa," bà nói, "đế đảm bảo...."

Jem nhỏm dậy, "nhưng....."

Bố Atticus giơ tay ra và Jem im lặng. Trên đường về nhà, Jem nói rằng anh chỉ phải làm chuyện này một tháng và một tháng đã hết và thế là không công bằng.

"Chỉ một tuần nữa thôi, con trai," bố Atticus nói.

"Không," Jem nói.

"Có đây," bố Atticus nói.

Tuần sau chúng tôi trở lại nhà bà Dubose. Đồng hồ báo giờ đã ngừng reo, nhưng bà Dubose phóng thích chúng tôi với câu, "đủ rồi", lúc chiều muộn tới độ hẳn bố Atticus đã ngồi đọc báo khi chúng tôi về tới nhà. Dù những cơn động kinh của bà đã biến mất, nhưng bà đã trở lại như trước ở mọi mặt khác: khi Sir Walter Scott sa đà vào những đoạn mô tả lê thê về những đường hào và các lâu đài, bà Dubose thường phát chán và quay ra chỉ trích chúng tôi:

"Jeremy Finch, ta đã bảo rằng cháu sẽ sống để hối tiếc về việc đã phá nát vườn hoa trà của ta. Giờ cháu đang hối tiếc, đúng không?"

Jem nói chắc chắn anh hối tiếc.

"Cháu nghĩ cháu có thể giết cây hoa Tuyết-trên-đỉnh-núi của ta, đúng không? Jessie nói ngọn của nó đã mọc lại. Lần sau cháu sẽ biết cách phá nó đúng cách, phải không? Cháu sẽ nhổ rễ nó lên, phải không?"

Jem thường nói chắc chắn anh sẽ làm vậy.

"Cháu đừng có lầu bầu với ta, nhóc! Hãy ngẩng cao đầu và nói vâng thưa bà. Dù sao ta cũng không nghĩ cháu sẽ thích giữ đầu cao với những gì bố cháu làm."

Cằm Jem đưa ra, và anh nhìn bà Dubose với khuôn mặt hoàn toàn không oán hận. Qua nhiều tuần anh đã trao dồi một cách thể hiện mối quan tâm vô tư và lịch sự, và anh sẽ trình ra cho bà để đáp lại những lời đặt điều kinh hoàng nhất của bà.

Cuối cùng ngày đó đã đến. Khi một chiều nọ bà Dubose nói, "Đủ rồi," bà nói thêm, "Vậy là xong. Chúc cháu ngày tốt lành."

Thế là xong. Chúng tôi phóng xuống vỉa hè trong niềm hân hoan cực độ, nhảy nhót và rú lên.

Mùa xuân đó thật tuyệt: ngày dài hơn và chúng tôi có thời gian chơi nhiều hơn. Đầu óc Jem hầu như chỉ đầy những thống kê quan trọng về từng cầu thủ bóng bầu dục đại học trên cả nước. Mỗi đêm bố Atticus sẽ đọc cho chúng tôi những trang báo thể thao. Năm nay bang Alabama có thể lại đi đến chung kết ở sân Rose Bowl, đánh giá qua những đội có triển vọng đoạt giải, không có cái tên nào trong số họ mà chúng tôi xác nhận được. Một tối nọ khi bố Atticus đang đọc đến chuyên mục của Windy Seaton thì chuông điện thoại reo.

Ông trả lời, rồi đi ra giá mũ ở tiền sảnh. "Bố sẽ sang nhà bà Dubose một lát," ông nói, "không lâu đâu."

Nhưng bố Atticus ở mãi bên đó tới quá giờ đi ngủ của tôi khá lâu. Khi ông về mang theo một hộp đựng kẹo. Bố Atticus ngồi xuống, đặt cái hộp xuống cạnh sàn ghế ông ngồi.

"Bà ấy muốn gì vậy?" Jem hỏi.

Chúng tôi đã không gặp bà hơn một tháng. Bà không còn ngồi ở hàng hiên khi chúng tôi đi qua.

"Bà ấy chết rồi, con trai," bố Atticus nói. "Bà chết cách đây vài phút."

"Ô," Jem nói. "Tốt."

"Tốt là đúng," bố Atticus nói. "Bà không còn phải chịu đau đớn nữa. Bà bệnh lâu rồi. Con trai, con không biết những cơn động kinh của bà là gì à?"

Jem lắc đầu.

"Bà Dubose là người nghiện Moóc-phin," bố Atticus nói. "Bà đã dùng nó như thứ thuốc giảm đau trong nhiều năm. Bác sĩ đã khuyên bà như thế. Bà đã dùng nó suốt quãng đời còn lại của bà và chết mà không đau đớn lắm, nhưng bà quá trái khoáy...."

"Sao bố?" Jem nói.

Bố Atticus nói, "Ngay trước khi xảy ra trò phá phách của con bà đã gọi bố đến làm di chúc cho bà. Bác sĩ Reynolds nói bà chỉ còn vài tháng nữa thôi. Công việc kinh doanh của bà đã được thu xếp chu đáo nhưng bà nói, vẫn còn một việc chưa thu xếp được."

"Đó là chuyện gì?" Jem bối rối.

"Bà nói bà sẽ rời khỏi thế giới này mà không mắc nợ cái gì với bất cứ ai. Jem, khi con bị bệnh như bà, việc dùng bất cứ thuốc gì để nó dễ chịu hơn thì cũng được thôi, nhưng bà không muốn vậy. Bà nói bà muốn giải thoát bà ra khỏi nó trước khi chết, và đó là việc bà đã làm."

Jem nói, "Ý bố là việc đó đã gây ra những cơn động kinh của bà hả?"

"Phải, chuyện là vậy. Trong hầu hết thời gian con đọc sách cho bà bố đã nghi không biết bà có nghe lời nào của con không. Toàn bộ tâm trí và cơ thể bà tập trung vào chiếc đồng hồ báo giờ. Nếu con không rơi vào tay bà, thì bố chắc cũng bảo con đến đọc cho bà nghe. Nó có thể là một cách tìm quên. Còn một lý do nữa.... "

"Vậy là bà đã chết thanh thản?" Jem hỏi.

"Như không khí trên núi," bố Atticus nói. "Hầu như bà đã tỉnh táo đến phút cuối. Tỉnh táo," ông mỉm cười, "và gắt gỏng. Bà vẫn phản đối kịch liệt những việc làm của bố, và nói chắc bố sẽ dành phần đời còn lại còn bố để cứu con khỏi nhà tù. Bà bảo Jessie đưa con cái hộp này...."

Bố Atticus thò xuống cầm hộp kẹo lên. Ông đưa nó cho Jem.

Jem mở hộp. Bên trong, bao quanh bởi mớ bông ẩm để chèn, là một bông hoa trà trắng, tuyệt hảo, bóng như sáp. Nó là một đóa Tuyết-trên-đỉnh-núi.

Jem trợn tròn mắt. "Bà già xấu xa chết tiệt, bà già xấu xa chết tiệt!" Anh rú lên, vứt nó xuống. "Sao bà ta không để con yên?"

Trong chớp mắt bố Atticus đã đứng dậy đến bên Jem, Jem vùi mặt vào ngực áo bố Atticus. "Sh-h," ông nói. "Bố nghĩ đó là cách bà nói với con - mọi việc giờ đã ổn, Jem, mọi thứ đều đã ổn. Con biết đo, bà là một quý bà vĩ đại."

"Quý bà?" Jem ngẩng đầu lên. Mặt anh đỏ bừng, "sau tất cả những điều bà ta nói về bố, vậy mà bà ta vẫn là một quý bà?"

"Đúng vậy, bà có quan điểm của riêng bà về mọi thứ, rất khác quan điểm của bố, có lẽ.... con trai, bố đã nói với con rằng nếu con không mất bình tĩnh, bố cũng sẽ bảo con đến đọc cho bà. Bố muốn con thấy được điều gì đó ở bà, bố muốn con thấy lòng can đảm là gì, thay vì có ý nghĩ rằng can đảm là người đàn ông có khẩu súng trong tay. Đó là khi con biết thất bại trước khi con bắt đầu nhưng dù vậy con vẫn bắt đầu và con theo đuổi nó tới cùng dù cho có chuyện gì xảy ra. Con hiếm khi thắng, nhưng đôi khi con cũng thắng. Bà Dubose đã thắng, tất cả bốn mươi sáu ký của bà. Theo quan điểm của bà, bà đã chết mà không mắc nợ bất cứ cái gì và bất cứ ai. Bà là người can đảm nhất bố từng biết."

Jem nhặt hộp lên và ném nó vào lò sưởi. Anh nhặt đóa hoa trà lên, rồi khi lên giường tôi thấy anh vuốt ve những cánh hoa nở to của nó. Bố Atticus vẫn đọc báo.

--------------------------------

1. Confederate States of America (Liên hiệp các tiểu bang Mỹ) tên gọi chính thức của phe miền Nam trong Nội chiến Mỹ.

2. Cách đọc trại tên Sir Walter Scott, tác giả tiểu thuyết Ivanhoe

Jem đã mười hai. Thật khó sống chung được với anh ấy, bất nhất, bất thường. Sự thèm ăn của anh thật khủng khiếp, và biết bao lần anh bảo tôi đừng làm phiền anh nữa, tôi hỏi ý kiến bố Atticus, "Không lẽ anh ấy bị sán sơ mít sao?" Bố Atticus nói không, Jem đang lớn. Tôi phải kiên nhẫn với anh và càng ít làm phiền anh càng tốt.

Sự thay đổi này của Jem xảy ra chỉ mới vài tuần. Bà Dubose còn chưa lạnh trong nấm mồ của bà - Jem có vẻ biết ơn khi tôi đã đi cùng anh khi anh đến đọc sách cho bà. Rồi đột nhiên, có vẻ Jem đã có được một hệ thống những giá trị mới mẻ và đang cố áp đặt nó lên tôi: nhiều lần anh thậm chí còn bảo tôi phải làm gì. Sau một trận cãi lộn nọ, Jem hét lên, "Đã đến lúc em làm một đứa con gái và cư xử cho đàng hoàng rồi đó!" Tôi khóc và chạy tới chỗ Calpurnia.

"Cô đừng lo lắng quá nhiều về cậu Jem...." Bà mở lời.

"Cậu Jem?"

"Phải, giờ cậu ấy sắp là cậu Jem rồi."

"Anh ấy đâu có già đến cỡ đó," tôi nói. "Anh ấy chỉ cần ai đó đập cho một trận, mà cháu thì chưa đủ lớn."

"Bé con," Calpurnia nói, "tôi không thể làm vậy nếu cậu Jem sắp lớn. Bây giờ cậu ấy muốn được yên thân một mình, làm những gì các chàng trai vẫn làm, vì vậy cô chỉ có cách xuống bếp khi cảm thấy cô đơn. Mình sẽ tìm ra nhiều việc để làm ở đây."

Bước khởi đầu của mùa hè đó là điềm tốt lành: Jem có thể làm như anh thích; Calpurnia cũng làm gì tùy ý cho đến khi Dill về đây. Bà có vẻ vui khi thấy tôi xuất hiện trong nhà bếp và qua việc quan sát bà tôi bắt đầu nghĩ có một số kỹ năng liên quan đến việc làm thân con gái.

Nhưng mùa hè tới và Dill không đến. Tôi nhận một lá thư và một bức ảnh Dill gửi. Lá thư nói nó có ba mới mà nó gửi hình kèm theo, và chắc nó phải ở lại Meridian vì họ lên kế hoạch đóng một cái thuyền đánh cá. Ba mới của nó là luật sư giống như bố Atticus, chỉ có điều trẻ hơn nhiều. Ba mới của Dill có khuôn mặt dễ chịu, tôi thấy mừng vì Dill có được ông ta, nhưng lòng tôi tan nát. Dill kết luận bằng cách nói nó sẽ yêu tôi mãi mãi và đừng lo, nó sẽ đến với tôi và cưới tôi ngay khi nó có đủ tiền, lá thư thật tuyệt.

Sự kiện tôi có một vị hôn phu lâu dài là sự đền bù nhỏ bé cho sự vắng mặt của nó: tôi chưa bao giờ nghĩ về nó, nhưng mùa hè nghĩa là có Dill bên cạnh hồ cá hút sợi thuốc, mắt Dill sống động với những kế hoạch phức tạp để làm Boo Radley xuất hiện; mùa hè nghĩa là Dill nhanh nhẹn chồm lên hôn tôi khi Jem không để ý, là những khao khát đôi khi chúng tôi cảm thấy đứa kia đang có. Có nó, cuộc sống trôi qua như thường lệ, không có nó, cuộc sống thật không chịu nổi. Tôi thấy khổ sở như thế trong hai ngày.

Như thể điều đó chưa đủ, cơ quan lập pháp tiểu bang lại được triệu tập họp khẩn cấp và bố Atticus xa chúng tôi hai tuần. Thống đốc hăm hở cải thiện hiệu năng của chính quyền tiểu bang; đã có những cuộc đình công ngồi lì ở Birmingham 1; những hàng người chờ phát bánh mì tại các thành phố ngày càng dài hơn, người dân vùng nông thôn càng nghèo đi. Nhưng đấy là những sự kiện xa vời ngoài thế giới của Jem với tôi.

Một sáng chúng tôi ngạc nhiên khi thấy một tranh biếm họa trên tờ Montgomery Advertiser với chú thích, "Finch của Maycomb." Nó vẽ bố Atticus chân trần mặc quần soóc, bị xích vào bàn giấy: ông đang chăm chú viết lên một tấm bảng đá đen trong khi một số cô gái có vẻ phù phiếm gào lên, "Yoo-hoo!" vào mặt ông.

"Đó là một lời khen ngợi," Jem giải thích. "Bố dành thời gian của bố để làm những việc mà chúng sẽ không thể hoàn tất nếu không có ai làm."

"Vậy hả?"

Ngoài những đặc điểm mới phát triển của Jem, anh đã có được cái vẻ thông thái dễ ghét.

"Scout này, nó giống như việc tái tổ chức hệ thống thuế của các hạt và các thứ đại loại như vậy. Đó là loại việc khá vô vị đối với hầu hết mọi người."

"Sao anh biết?"

"� , đi chơi đi, để anh yên. Anh đang đọc báo."

Jem muốn thế thì được ngay thôi. Tôi bỏ đi xuống bếp.

Trong khi đang tách vỏ đậu, bất ngờ Calpurnia nói, "Chủ nhật này tôi làm gì với vụ đi nhà thờ của cô cậu đây?"

"Con chắc là khỏi phải làm gì cả. Bố Atticus có để lại cho tụi con tiền quyên góp cho nhà thờ mà."

Đôi mắt của Calpurnia nheo lại và tôi có thể đọc được những gì dang diễn ra trong đầu bà. "Cal," tôi nói, "bà biết tụi con sẽ ngoan mà. Mấy năm nay tụi con đâu có gây chuyện gì trong nhà thờ."

Rõ ràng là Calpurnia đang nhớ lại một Chủ nhật trời mưa khi chúng tôi vừa không có bố vừa không có giáo viên trông coi. Được tháo cũi sổ lồng, cả lớp đã buộc Eunice Ann Simpson vào một cái ghế và đặt nó trong phòng lò sưởi. Bọn tôi quên mất nó, lần lượt kéo nhau lên lầu đến nhà nguyện, và khi chúng tôi đang im lặng lắng nghe bài giảng thì những tiếng va đập khủng khiếp phát ra từ ống dẫn lò sưởi, liên tục không ngừng cho đến khi ai đó đi tìm hiểu và đưa được Eunie Ann ra và nói rằng con bé không muốn đóng vai Shadrach 2 nữa - Jem Finch nói con bé sẽ không bị thiêu cháy nếu nó có đủ đức tin, nhưng dưới đó quá nóng.

"Với lại, Cal, đây đâu phải lần đầu bố Atticus để bọn con ở nhà một mình đâu," tôi phản đối.

"Phải, nhưng ông ấy yên chí là giáo viên của cô sẽ có mặt ở đó. Lần này tôi không nghe ông nói thế - chắc là ông quên." Calpurnia gãi đầu. Bất chợt bà mỉm cười. "Cô với cậu Jem có thích đi nhà thờ với tôi ngày mai không?"

"Thật ư?"

"Chịu không?" Calpurnia cười toét.

Nếu trước đó Calpurnia thường tắm rửa mạnh tay cho tôi, thì cũng chẳng có gì sánh được sự chăm nom của bà về những việc thường lệ của đêm thứ Bảy đó. Bà chà xà bông khắp người tôi hai lần, múc nước sạch trong chậu mỗi lần dội; bà nhấn đầu tôi vào bồn và gội bằng xà bông Octagon và xà bông Tây Ban Nha. Bà đã tin cậy Jem nhiều năm nay, nhưng đêm đó bà xâm phạm sự riêng tư của anh và khiến anh cự lại dữ dội, "Trong nhà này bộ người ta không thể tắm mà cả nhà không nhìn sao?"

Sáng hôm sau bà bắt đầu sớm hơn thường lệ, để "kiểm tra kỹ quần áo của chúng tôi." Khi Calpurnia sang ngủ qua đêm với chúng tôi, bà ngủ trên giường xếp trong nhà bếp; sáng hôm đó nó đầy quần áo ngày Chủ nhật của bọn tôi. Bà đã hồ chiếc đầm của tôi quá nhiều đến độ nó giương lên như cái lều khi tôi ngồi xuống. Bà bắt tôi mặc một váy lót dài và thắt một dải thắt lưng màu hồng. Bà chà kỹ đôi dày da của tôi với một chiếc bánh nướng nguội đến độ bà soi thấy mặt mình trên đó.

"Cứ như mình sắp đi hội Mardi Gras 3 vậy," Jem nói. "Tất cả chuyện này để làm chi vậy, Cal?"

"Tôi không muốn người ta nói rằng tôi không chăm sóc bọn trẻ của tôi," bà lầu bầu. "Cậu Jem, cậu tuyệt đối không được đeo cái nơ đó với bộ đồ đó. Nó màu xanh lá cây mà."

"Nó có sao đâu?"

"Bộ đồ màu xanh da trời mà. Cậu không biết hả?"

"Ha, ha," tôi rú lên, "Jem mù màu."

Mặt anh đỏ lên vì giận, nhưng Calpurnia nói, "Cô cậu thôi đi được rồi đó. Cô cậu sẽ đến First Purchase với nụ cười trên môi."

Nhà thờ First Purchase của người Da đen nằm ở bên ngoài ranh giới phía Nam thị trấn, đối diện với khu đường mòn của khu xưởng cưa cũ. Nó là một tòa nhà cũ kỹ đã tróc sơn nhiều chỗ, nhà thờ duy nhất ở Maycomb có tháp chuông và chuông, được gọi là First Purchase 4 bởi vì nó được mua bằng những đồng tiền đầu tiên những nô lệ được giải phóng kiếm được. Người Da đen thờ phụng trong đó vào các ngày Chủ nhật và người da trắng đánh bạc trong đó vào những ngày khác trong tuần.

Sân nhà thờ bằng đất sét cứng như gạch nung, như nghĩa trang cạnh nó. Nếu có ai chết vào mùa khô, xác họ sẽ được ướp đá cho đến khi mưa làm mềm đất. Vài ngôi mộ trong nghĩa trang được đánh dấu bằng những bia mộ đổ nát; các ngôi mộ mới hơn được rào quanh bằng những miếng kính màu sặc sỡ và những chai Coca-Cola bể. Những cây cột thu lôi trên một số ngôi mộ cho thấy người chết yên nghỉ không được thoải mái lắm; những mẩu nến thừa đứng ngay đầu các nấm mồ trẻ con. Đó là một nghĩa trang hạnh phúc.

Mùi ngòn ngọt đăng đắng nồng ấm của người Da đen sạch sẽ trùm lấy chúng tôi ngay khi bước vào sân nhà thờ - mùi dầu gội Hearts of Love hòa quyện với mùi tỏi tây, thuốc lá hít, nước hoa Hoyts Cologne, thuốc lá nhai Browns Mule, mùi bạc hà, và phấn rôm tử đinh hương.

Khi thấy Jem và tôi đi cùng Calpurnia, đàn ông bước lùi lại và nhấc mũ ra; phụ nữ đan tay trước bụng, những cử chỉ tỏ vẻ trân trọng thường thấy. Họ tách ra tạo thành một lối đi nhỏ đến cửa nhà thờ cho chúng tôi. Calpurnia đi giữa Jem và tôi, đáp lại những lời chào của các láng giềng ăn mặc sặc sỡ của bà.

"Chị làm gì vậy, Cal?" Một giọng nói từ sau lưng chúng tôi vang lên.

Hai bàn tay Calpurnia lần đến vai chúng tôi và chúng tôi dừng lại, quay lại nhìn: đứng trên lối đi sau lưng chúng tôi là một phụ nữ da đen cao. Chị ta đứng trên một chân, khuỷu tay chống hông, bàn tay ngửa lên chỉ vào chúng tôi. Chị ta có cái đầu tròn nhỏ, với đôi mắt hình quả hạnh đào kỳ lạ, mũi thẳng, miệng cong. Nhìn chị ra phải cao tới gần hai mét.

Tôi cảm thấy bàn tay Calpurnia bấu chặt vai tôi. "Cô muốn gì, Lula?" Bà hỏi bằng giọng điệu tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Bà hỏi nhỏ nhẹ, đầy khinh bỉ.

"Tôi muốn biết tại sao chị đưa mấy nhóc da trắng đến nhà thời của dân da đen."

"Chúng là khách của tôi," Calpurnia nói. Tôi lại thấy giọng bà nghe là lạ: bà nói chuyện giống hầu hết bọn họ.

"Phải, tôi cho là bà cũng là khách của nhà Finch suốt cả tuần."

Tiếng xì xầm lan khắp đám đông. "Đừng lo." Calpurnia thì thầm với tôi, nhưng những bông hoa trên mũ bà run lên đầy phẫn nộ.

Khi Lula bước sấn về phía chúng tôi, Calpurnia nói, "Đứng lại đó, con mọi đen."

Lula dừng lại, nhưng chị ta nói, "Chị không việc gì phải đưa bọn nhóc da trắng đến đây.... chúng có nhà thờ của chúng, chúng ta có nhà thờ của chúng ta. Đây là nhà thờ của chúng ta, đúng không, cô Cal?"

Calpurnia nói, "Chúng thờ cùng một Chúa với ta, đúng không?"

Jem nói, "Mình về thôi, Cal, họ không muốn tụi tôi ở đây...."

Tôi đồng ý: họ không muốn chúng tôi ở đây. Tôi có cảm giác, hơn là thấy, rằng chúng tôi đang được đẩy tới. Có vẻ như họ đang tiến lại gần chúng tôi hơn, nhưng khi tôi nhìn Calpurnia thì thấy có một sự thích thứ trong mắt bà. Khi tôi nhìn xuống lối đi lần nữa, Lula đã đi mất. Ngay chỗ chị ra là một đám đông những người da màu.

Một trong số họ bước khỏi đám đông. Đó là Zeebo, người quét rác. "Cậu Jem," anh ta nói, "chúng tôi rất hân hạnh khi cô cậu đến đây. Đừng quan tâm đến Lula, cô ta ưa gây sự bởi vì Cha Sykes dọa không cho cô ấy vào nhà thờ. Cô ấy là người hay gây rối từ lâu nay, có những ý nghĩ quái gở và cung cách phách lối.... tụi tôi rất hân hạnh khi cô cậu đến đây."

Thế là Calpurnia dẫn chúng tôi đến cửa nhà thờ nơi Đức cha Sykes đón chào chúng tôi, ông dẫn chúng tôi tới hàng ghế đầu.

Nhà thờ First Purchase không đóng trần và không được sơn bên trong. Dọc bức tường nhà thờ có những cây đèn dầu hỏa chưa thắp sáng treo trên những giá đỡ bằng đồng, những băng ghế gỗ thông được dùng làm ghế nguyện. Phía sau bục giảng bằng gỗ sồi xù xì là một biểu ngữ bằng lụa hồng đã bạc màu có dòng chữ Thiên Chúa Là Tình Thương, nó là món trang trí duy nhất của nhà thờ nếu không kể bản in kẽm trong bức tranh The Light of the World 5 của Hunt. Không có bóng dáng của đàn dương cầm, phong cầm, những tập thánh ca, những chương trình hành lễ - những thứ quen thuộc của nhà thờ mà chúng tôi thường thấy mỗi Chủ nhật. Bên trong tối mờ, với cái lạnh ẩm ướt dần dần bị xua tan khi giáo dân tập trung vào. Ở mỗi chố ngồi có một cái quạt bằng bìa giấy cứng rẻ tiền in hình Khu vườn Gethsemane 6 lòe loẹt, quà tặng của công ty Tydals Hardware Co. (Với khẩu hiệu Bạn-cần-gì-chúng-tôi-bán-nấy).

Calpurnia đẩy chúng tôi xuống cuối hàng ghế và ngồi giữa chúng tôi. Bà lục tìm trong ví, lôi ra chiếc khăn tay, mở lấy một mớ tiền lẻ cột ở góc khăn. Bà đưa một đồng mười xu cho tôi và một đồng mười xu cho Jem. "Tụi con có tiền rồi," anh thì thầm với tôi. "Bà cứ giữ lấy."Calpurnia nói, "Cô cậu là khách của tôi." Tôi thoáng thấy nét do dự về đạo đức trên mặt Jem xem có nên giữ lại đồng mười xu của mình nhưng thói lịch sự bẩm sinh của anh đã thắng và anh nhét đồng mười xu vào túi. Tôi làm theo không chút băn khoăn.

"Cal," tôi thì thầm, "sách thánh ca đâu?"

"Tụi tôi không có cuốn nào hết," bà nói.

"Sao lại..."

"Suỵt," bà nói. Cha Sykes đang đứng sau bục giảng nhìn giáo đoàn ra hiệu im lặng. Ông là người thấp, chắc nịch trong bộ đồ đen, nơ đen, và sơ mi trắng, và một dãy đồng hồ vàng lấp lánh trong ánh sáng từ những cửa sổ đầy tuyết.

Ông nói, "Hỡi anh chị em, chúng ta đặc biệt vui vì có những người bạn đến với chúng ta sáng nay. Cậu và cô Finch. Tất cả các bạn đều biết cha họ. Trước khi bắt đầu tôi sẽ đọc mấy thông báo."

Cha Sykes lật giở mấy tờ giấy, chọn một tờ và giơ thẳng ra trước mặt. "Hội truyền giáo họp ở nhà chị Annette Reeves thứ Ba tuần sau. Đem theo đồ may vá của các bạn."

Ông đọc một tờ giấy khác. "Tất cả các bạn đều biết vụ rắc rối của người anh em Tom Robinson. Anh ấy là thành viên trung tín của First Purchase từ hồi còn là cậu bé. Tiền quyên góp được hôm nay và trong ba Chủ nhật tôi sẽ gửi đến cho Helen - vợ của Tom, để giúp chị ấy lúc túng quẫn ở nhà."

Tôi thúc Jem, "Đó là cái ông Tom mà bố Atticus sắp...."

"Suỵt!"

Tôi quay sang Calpurnia nhưng đã bị chặn lại trước khi kịp nói ra. Tôi nén lại, dán sự chú ý vào Cha Sykes, người có vẻ như chờ tôi bình tĩnh trở lại. "Sẽ có người phụ trách âm nhạc hướng dẫn chúng ta trong bài thánh ca đầu tiên," ông nói.

Zeebo nhỏm dậy khỏi ghế và bước tới lối đi ở giữa, dừng lại trước mặt chúng tôi và đối diện với giáo đoàn. Anh cầm một cuốn thánh ca đã sờn cũ. Anh mở nó ra và nói, "Tất cả chúng ta sẽ hát bài số hai trang bảy mươi ba."

Đến vụ này thì tôi hết chịu nổi. "Làm sao mà hát được khi không có cuốn thánh ca nào cả?"

Calpurnia mỉm cười, "Suỵt, cô bé," bà thì thầm, "cô sẽ thấy ngay thôi."

Zeebo hắng giọng và đọc nghe như tiếng rền của đạn pháo từ xa;

"Có một vùng đất bên kia con sông."

Kỳ diệu thay, cùng với độ cao, cả trăm giọng cùng hát to những lời của Zeebo. Âm tiết cuối cùng, tan thành tiếng ngân nga khàn khàn, kế theo đó là tiếng của Zeebo.

"Mà chúng ta gọi là miền đất dấu yêu mãi mãi."

Âm nhạc lại dâng lên quanh chúng tôi ; nốt cuối cùng ngân dài và Zeebo nối sang câu hát kế tiếp, "Và chúng ta chỉ tới được bờ đó bằng sức mạnh đức tin."

Giáo đoàn ngập ngừng, Zeebo lập lại câu đó một cách cẩn thận, và mọi người hát theo. Tới đoạn đồng ca, Zeebo gấp sách lại, một dấu hiệu cho giáo đoàn hát tiếp mà không cần anh lĩnh xướng.

Khi từ "Lễ mừng," tắt dần Zeebo nói, "trong miền đất xa xôi dấu yêu mãi mãi đó, ngay bên kia dòng sông sáng rực."

Từng câu một, mọi người hát theo với sự hòa âm đơn sơ cho đến khi kết thúc bài thánh ca bằng tiếng thì thầm buồn bã.

Tôi nhìn Jem, anh đang liếc nhìn Zeebo. Tôi cũng chẳng tin, nhưng cả hai chúng tôi đều nghe thấy nó.

Sau đó Cha Sykes cầu Chúa ban phúc cho những kẻ bệnh tật và đau khổ, một thủ tục không khác thủ tục của nhà thờ chúng tôi, trừ việc Cha Sykes xin Thượng đế chú ý đến vài trường hợp cụ thể.

Bài giảng của ông là sự tố cáo tội lỗi một cách thẳng thắn, một tuyên ngôn đơn giản về phương châm trên tường sau lưng ông: ông cảnh báo con chiên của ông trước những tai ương của rượu chè, cờ bạc, phụ nữ lạ. Bọn buôn bán rượu lậu đã gây đủ rắc rối trong khu này rồi, nhưng phụ nữ còn tồi tệ hơn. Một lần nữa, như tôi thường thấy trong nhà thờ của chúng tôi, tôi gặp phải học thuyết về sự ô uế của phụ nữ vốn có vẻ như ám ảnh mọi tu sĩ.

Jem và tôi nghe bài giảng giống vậy hết Chủ nhật này đến Chủ nhật khác, với duy nhất một ngoại lệ. Cha Sykes sử dụng bục giảng của ông một cách thoải mái hơn để biểu lộ các quan điểm của mình về những sa ngã cá nhân: Jim Hardy đã vắng mặt ở nhà thờ năm Chủ nhật và anh ta không hề bệnh; Constance Jackson nên cẩn thận hơn trong cách cư xử của mình ... cô ta đang gặp nguy hiểm vì cãi nhau với những láng giềng; cô ta đã dựng lên hàng rào thù hận duy nhất trong lịch sử của khu dân cư này.

Mục sư Sykes kết thúc bài giảng của mình. Ông đứng cạnh cái bàn trước bục giảng và kêu gọi quyên góp buổi sáng, một nghi thức kỳ lạ với Jem và tôi. Từng người một, giáo đoàn tiến về phía trước bỏ những đồng năm xu và mười xu vào bình cà phê phủ mem đen. Jem và tôi cũng bắt chước, và nhận được lời nói dịu dàng, "Cám ơn, cám ơn," khi những đồng mươi xu của chúng tôi bỏ xuống kêu leng keng.

Trước sự ngạc nhiên của bọn tôi, mục sư Sykes đổ chiếc bình ra bàn và hốt những đồng xu trong tay. Ông đứng thẳng người và nói, "Bấy nhiêu chưa đủ, chúng ta phải có mười đô."

Giáo đoàn xôn xao. "Tất cả các bạn đều biết nó để làm gì....Helen không thể bỏ bọn trẻ để đi làm trong khi Tom ở tù. Nếu mọi người đều cho thêm một đồng mười xu nữa, chúng ta sẽ có đủ...." Mục sư Sykes vẫy tay gọi ai đó ở phía sau nhà thờ. "Alec, đóng các cửa lại. Không ai rời khỏi đây cho đến khi chúng ta có đủ mười đô."

Calpurnia móc trong túi ra chiếc ví da mòn cũ đựng tiền xu. "Không, Cal," Jem thì thầm, khi bà trao cho anh đồng hai mươi lăm xu sáng loáng, "tụi con có thể góp tiền của tụi con vào. Đưa anh đồng mười xu của em, Scout."

Nhà thờ trở nên ngột ngạt, và tôi nhận ra rằng mục sư Sykes có ý định để cho các con chiên của ông đổ mồ hôi hột đúng mức. Quạt kêu xoanh xoạch, những bàn chân bồn chồn, những người nhai thuốc lá bực bội.

Mục sư Sykes làm tôi giật mình bằng câu nói nghiêm khắc, "Carlow Richardson, ta chưa thấy con đi trên lối đi này."

Một người đàn ông gày gò trong chiếc quần ka ki bước trên lối đi và đóng góp một đồng xu. Giáo đoàn lầm rầm tán đồng.

Sau đó mục sư Sykes nói, "Ta muốn tất cả các con, trừ trẻ em, hy sinh một chút và mỗi người cho mười xu nữa. Vậy là chúng ta sẽ có đủ."

Từ từ, một cách đau khổ, mười đô được gom đủ. Cửa mở ra, và một luồng khí ấm làm chúng tôi tỉnh lại. Zeebo đọc từng câu trong bài thánh ca On Jordans Stormy Banks, và buổi lễ kết thúc.

Tôi muốn ở lại để tìm hiểu thêm, nhưng Calpurnia đã đẩy tôi theo lối đi trước bà. Tại cửa nhà thờ, trong khi bà dừng lại để nói chuyện với Zeebo và gia đình anh, Jem và tôi nói chuyện với mục sư Sykes. Trong tôi dấy lên cả đống thắc mắc, nhưng tôi quyết định để chúng cho Calpurnia trả lời.

"Chúng tôi đặc biệt vui khi cô cậu đến đây," mục sư Sykes nói. "Nhà thờ này không có người bạn nào tốt hơn cha cô cậu."

Cơn tò mò của tôi bộc lộ, "Tại sao mọi người đều tham gia quyên góp cho vợ của Tom Robinson?"

"Cô không biết lý do à?" Mục sư Sykes hỏi. "Helen có ba đứa con nhỏ dại và cô ấy không thể bỏ nhà đi làm được...."

"Sao cô ấy không mang chúng theo, mục sư?" Tôi hỏi. Những người Da đen có con nhỏ mà phải làm việc ngoài đồng thường đặt chúng dưới bất cứ bóng mát nào ở đó trong khi họ làm việc - thường thì những đứa bé ngồi trong bóng mát giữa hai hàng cây vải bông. Những đứa chưa tự ngồi vững thì được buộc vào những túi địu trên lưng mẹ chúng, hoặc ở trong những túi vải họ mang theo.

Mục sư Sykes ngập ngừng. "Nói thật với cô, cô Jean Louise. Hồi này Helen khó mà tìm được việc làm.... khi đến mùa gặt hái, ta nghĩ ông Link Deas sẽ nhận cô ấy."

"Sao không, mục sư?"

Trước khi ông kịp trả lời, tôi cảm thấy bàn tay Calpurnia đặt lên vai tôi. Trước sức ép của nó, tôi nói, "Chúng cháu cảm ơn ông vì đã cho chúng cháu đến." Jem lặp lại lời tôi, và chúng tôi lên đường về nhà.

"Cal, con biết Tom Robinson đang ở tù và anh ta đã làm điều gì đó khủng khiếp, nhưng tại sao người ta không thuê Helen vậy?" Tôi hỏi.

Calpurnia, trong bộ áo váy voan xanh nước biển và chiếc mũ hải quân, đi giữa Jem và tôi nói. "Đó là do những gì người ta cho là Tom đã làm," bà nói. "Người ta đâu có muốn ......dính líu đến một ai trong gia đình anh ta."

"Thế anh ta đã làm gì vậy, Cal?"

Calpurnia thở dài. "Lão già Bob Ewell đã buộc anh ta tội cưỡng hiếp con gái lão ta và khiến anh ta bị bỏ tù...."

"Ông Ewell?" Ký ức tôi khuấy động. "Anh ta có quan hệ gì với mấy thằng Ewell chỉ đến trường ngày đầu năm học rồi nghỉ luôn không? Bố Atticus nói họ là thứ hoàn toàn không ra gì.... Con chưa từng nghe bố Atticus nói về người khác theo kiểu ông nói về người nhà Ewell. Ông nói...."

"Phải, chính cái nhà đó đó."

"Nếu ai ở Maycomb cũng biết người nhà Ewell là thế nào, thì họ phải vui vẻ thuê Helen chứ..... mà cưỡng hiếp là gì vậy, Cal?"

"Đó là điều mà cô nên hỏi ông Finch," bà nói, "ông có thể giải thích nó rõ hơn tôi. Cô cậu đói chưa? Ông mục sư mất nhiều thời gian giải quyết công việc sáng nay quá, thường thì ông không chán ngắt như thế."

"Ông ấy cũng giống như Cha giảng đạo của tụi con," Jem nói, "nhưng sao mọi người ở đây hát thánh ca theo kiểu đó?"

"Hát theo hả?" Bà hỏi.

"Nó gọi là vậy phải không?"

"Phải, nó được gọi là hát theo. Người ta làm thế từ lâu lắm rồi."

Jem nói họ có thể để dành tiền quyên góp trong một năm để mua sách thánh ca.

Calpurnia bật cười. "Chẳng ăn thua gì," bà nói. "Họ đâu có biết đọc."

"Không biết đọc?" Tôi hỏi. "Tất cả à?"

"Đúng vậy," Calpurnia gật đầu. "Không biết đọc, cả giáo xứ First Purchase này đều không biết đọc trừ khoảng bốn người.... trong đó có tôi."

"Bà học trường nào vậy, Cal?" Jem hỏi.

"Chẳng ở trường nào cả. Cô cậu muốn biết ai dạy chữ cho tôi hả? Đó là gì của cô Maudie Atkinson, cô Buford già...."

"Bà già tới vậy sao?"

"Tôi già hơn cả ông Finch nữa đó." Calpurnia mỉm cười. "Nhưng chắc không lớn hơn bao nhiêu. Có lần chúng tôi bắt đầu nhớ lại, ráng tính xem tôi bao nhiêu tuổi... Tôi có thể nhớ xa hơn ông ấy vài năm, tức là tôi không lớn hơn ông ấy nhiều lắm, khi đó mình rút ra kết luận rằng đàn ông không nhớ dai bằng đàn bà."

"Sinh nhật của bà là ngày nào, Calpurnia?"

"Tôi cứ cho nó trùng với Giáng sinh, như thế dễ nhớ hơn - tôi không có ngày sinh nhật thật."

"Nhưng bà Cal này," Jem phản đối, "trông bà thậm chí còn chưa già bằng bố Atticus."

"Người da màu không lộ vẻ già nua nhanh lắm," bà nói.

"Chắc tại họ không biết đọc. Cal, bộ bà dạy Zeebo đọc hả?"

"Phải, cậu Jem. Hồi nó còn nhỏ, thậm chí ở đây một ngôi trường cũng chưa có nữa. Dù vậy tôi vẫn bắt nó học."

Zeebo là con trai lớn của Calpurnia. Nếu tôi từng nghĩ về điều này, hẳn tôi đã nhận ra từ trước kia rằng Zeebo đã tới tuổi trưởng thành rồi - Zeebo đã có con hơi lớn rồi - nhưng hồi đó tôi không nghĩ ra được như vậy.

"Bà dạy anh ấy theo một cuốn sách vỡ lòng, như tụi con vậy hả?" Tôi hỏi.

"Không, tôi bắt nó học mỗi ngày một trang Kinh Thánh, còn cô Buford thì dạy tôi theo một cuốn sách khác - tôi chắc là cô cậu không biết ở đâu mà tôi có được nó," bà nói.

Chúng tôi không biết.

Calpurnia nói, "Cụ nội Finch của cô cậu cho tôi đó."

"Bà từng ở Landing hả?" Jem hỏi. "Bà chưa hề kể cho tụi con nghe chuyện đó."

"Phải rồi, cậu Jem. Tôi lớn lên ở đó giữa điền trang nhà Buford với Landing. Suốt ngày tôi phải làm việc hoặc cho Buford hoặc cho Landing, và tôi chuyển đến Maycomb khi bố và mẹ cô cậu cưới nhau."

"Cuốn sách đó là cuốn gì vậy?" Tôi hỏi Cal.

"Commetaries của BlackStone 7."

Jem kinh ngạc. "Ý bà là bà đã dạy Zeebo theo cuốn đó hả?"

"Phải, thưa cậu Jem."Calpurnia rụt rè đưa những ngón tay lên che miệng. "Tôi chỉ có mấy cuốn đó. Ông nội cậu nói Blackstone viết tiếng Anh rất chuẩn...."

"Đó là lý do tại sao bà không ăn nói giống như những người còn lại đó," Jem nói.

"Những người còn lại nào?"

"Những người da màu khác. Cal, nhưng bà ăn nói giống như người ta ăn nói trong nhà thờ..."

Tôi chưa từng nghĩ Cal có một cuộc sống kép giản dị. Ý nghĩ bà có một cuộc sống riêng lẻ ngoài gia đình tôi là một ý tưởng mới lạ, chưa nói đến chuyện bà thông thạo hai loại ngôn ngữ.

"Cal," tôi hỏi, "sao bà dùng lối-nói-mọi-đen với... với người của bà trong khi bà biết nói thế không đúng?"

"Ờ thì, thứ nhất tôi là người da đen..."

"Điều đó không có nghĩa là bà phải nói theo cách đó khi bà hiểu biết nhiều hơn," Jem nói.

Calpurnia nghiêng mũ và gãi đầu, rồi cẩn thận kéo mũ trùm xuống tai. "Quả là khó noi," bà nói. "Giả sử như cậu và Scout dùng lối nói của người da màu ở nhà thì quả là không phù hợp, phải không? Vậy thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu như tôi dùng lối nói của người da trắng tại nhà thờ này, với người hàng xóm của tôi? Họ sẽ nghĩ tôi làm ra vẻ ta đây hơn người."

"Nhưng Cal, bà biết nhiều hơn cơ mà," tôi nói.

"Không cần thiết phải nói mọi điều mình biết. Như thế không đúng kiểu quý cô - thứ hai, người ta không thích xung quanh ai đó biết nhiều hơn họ. Nó làm cho họ bực thêm. Cô sẽ không thay đổi được bất kỳ ai trong số họ bằng việc nói đúng, tự họ phải cảm thấy muốn học hỏi, và khi họ không muốn học thì cô chẳng thể làm gì ngoài việc im miệng hoặc nói bằng thứ ngôn ngữ của họ."

"Cal, thỉnh thoảng con có thể đến gặp bà không?" Tôi hỏi.

Calpurnia nhìn xuống tôi, "Gặp tôi, bé cưng? Cô gặp tôi mỗi ngày mà."

"Tới nhà bà đó," tôi nói. "Đôi khi sau giờ làm việc được không? Bố Atticus có thể dẫn con tới."

"Bất cứ lúc nào cô muốn," bà nói. "Chúng tôi rất vui được đón cô."

Chúng tôi đang đi trên lề đường ngang nhà Radley.

"Nhìn hàng hiên đằng kia kìa," Jem nói.

Tôi nhìn sang nhà Radley, mong được thấy con người bí ẩn đó đang sưởi nắng trên xích đu. Chiếc xích đu trống trơn.

"Ý tao nói hiên nhà mình kìa," Jem nói.

Tôi nhìn xuôi theo con đường. Thích chí, thẳng tưng, kiên quyết không rời, bà Alexandra đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh chính xác như thể bác đã ngồi đó từng ngày một suốt cả đời bác.

--------------------------------

1. Biểu tình ngồi lì: một vũ khí hữu hiệu của giới công nhaanh ở thời Đại khủng hoảng kinh tế, họ ngồi tại xưởng, họ không làm việc và không cho ai khác làm việc, cho đến khi giới chủ chịu đàm phán với họ.

2. Một trong ba người bị vua Nebuchadnezzar ném vào lò lửa, theo sách Daniel trong Cựu ước. Nhờ đức tin vào Thiên chúa, cả ba thoát nạn không chút hề hấn.

3. Mardi Gras (gốc tiếng Pháp, nghĩa đen là thứ Ba béo): đợt lễ hội, vui chơi và diễu hành khi bước vào tuần chay mùa Phục sinh của người Công giáo, bắt đầu bằng thứ Tư lễ Tro.

4. Nghĩa là món mua sắm đầu tiên.

5. Nghĩa là: Ánh sáng của thế gian

6. Kinh thánh tiếng Việt phiên âm thành Ghếtsêmani: nơi Jesus tới cầu nguyện vào đêm trước khi bị đóng đinh trên thập giá.

7. Một trong những tác phẩm quan trọng nhất về luật pháp của Anh.

Đọc tiếp: Giết con chim nhại - Phần 6
Home » Truyện » Tiếu thuyết » Giết con chim nhại
↑ Trên cùng
Copyright © Thich123.net
Liên kết © Uhm123.net - HIM18.COM