Các bạn truy cập vào HIM18.COM để đọc truyện MỚI nha. Mong các bạn ủng hộ website mới này!

Hãy chăm sóc mẹ - Kỳ 2

Chương 1: Không ai biết(3)

Mẹ thích câu chuyện của mình ư? Cô thầm nghĩ, lòng đầy xúc động. Cô biết rằng câu chuyện của mình không thú vị đến thế; chỉ là cách nói chuyện của cô với mẹ đã thay đổi sau những trải nghiệm của cô ở Thư viện chữ nổi. Từ khi lên thành phố, cô lúc nào cũng nói chuyện với mẹ với thái độ cau có. Cô hay cãi trả mẹ, “Mẹ thì biết gì chứ?” Cô hay quở trách, “Sao mẹ là mẹ mà lại đi làm thế?” Cô cũng thường trả lời một cách lạnh lùng, “Mẹ biết chuyện đó làm gì?” Biết mẹ không còn hơi sức đâu để la mắng nên nếu mẹ hỏi, “Con đến đó làm gì vậy?” cô sẽ trả lời cụt lủn, “Vì con phải đến.” Thậm chí khi cô phải đi máy bay vì sách của cô được xuất bản ở nước khác hoặc cô cần ra nước ngoài dự hội thảo, nếu mẹ hỏi, “Con đến đó làm gì vậy?” cô cũng sẽ lấy giọng công việc để trả lời, “Bởi vì con có công có việc cần quan tâm mà mẹ.” Mẹ bảo cô đừng nên đi máy bay nữa. “Nếu tai nạn xảy ra sẽ có hơn hai trăm người cùng thiệt mạng đấy.” “Có việc thì vẫn phải đi chứ mẹ,” cô đáp gọn. Nếu mẹ hỏi, “Sao con nhiều việc thế?” Cô sẽ ủ rũ trả lời, “Thôi mà mẹ, con biết rồi.” Cô cảm thấy thật khó khăn khi nói chuyện của mình với mẹ. Những việc cô làm dường như không liên quan gì đến cuộc sống của mẹ.

Nhưng khi cô kể về cảm giác hoang mang lúc nhìn thấy quyển sách chữ nổi và nỗi hốt hoảng khi đứng trước hơn bốn trăm người khiếm thị, mẹ cô chăm chú lắng nghe như thể cơn đau đầu của mẹ đã tiêu tan. Lần cuối cùng cô tâm sự với mẹ về một chuyện gì đó xảy ra với mình là bao giờ? Nhiều năm nay, những cuộc nói chuyện giữa cô và mẹ đã trở nên hết sức đơn giản. Thậm chí hai mẹ con hiếm khi nói chuyện trực tiếp mà chỉ thường nói qua điện thoại. Câu chuyện của cô chủ yếu chỉ xoay quanh những việc như mẹ ăn gì, mẹ có khỏe không, bố dạo này ra sao, mẹ cẩn thận kẻo bị cảm, cô đã gửi tiền cho bố mẹ... Mẹ thì nói đến những việc như mẹ đã muối kim chi gửi lên thành phố, mẹ hay gặp ác mộng ban đêm, mẹ đã gửi gạo, gửi xì dầu cho cô, hay mẹ đã chế biến ích mẫu thảo gửi cho cô, thế nên cô đừng tắt điện thoại vì người đưa bưu phẩm sẽ gọi điện trước khi mang mấy gói đó đến.

Quyển sách vốn chỉ có một tập của cô khi chuyển sang chữ nổi lại thành ra bốn tập. Cầm cái túi giấy đựng mấy quyển sách đó, cô chào tạm biệt mọi người tại Thư viện chữ nổi, và cô vẫn còn hai tiếng trước chuyến bay về Seoul. Cô nhớ lại khi đang đứng trên sân khấu, để tránh những cặp mắt của họ, cô đã nhìn ra con đường đầy tuyết ngoài cửa sổ và thấy những con tàu lớn nhỏ đang buông neo ở bến cảng. Cô nghĩ có bến cảng ắt phải có chợ hải sản. Cô bắt taxi và bảo tài xế đưa cô ra chợ hải sản. Mỗi khi đến những thành phố khác, nếu có thời gian cô rất thích đi lòng vòng trong chợ để ngắm nghía mọi thứ. Dù là ngày giữa tuần nhưng chợ rất ồn ào đông đúc. Bên ngoài chợ, cô đứng xem hai ngư dân đang cắt khúc một con cá to đùng. Thấy con cá to quá, cô hỏi người bán hàng đó có phải là cá ngừ không. Người bán hàng trả lời đó là cá thái dương. Cô chợt nghĩ đến nhân vật nữ chính trong một tác phẩm văn học nào đó mà cô không nhớ nhan đề. Sinh ra ở một thành phố ven biển, cứ mỗi khi buồn phiền cô ấy lại tìm đến công viên đại dương đồ sộ và tráng lệ tại công viên trung tâm thành phố để trò chuyện với con cá thái dương đang bơi trong đó. Nhân vật đó thổ lộ với con cá thái dương rằng mẹ cô đã lấy hết số tiền tiết kiệm của cô rồi bỏ đi cùng một chàng trai trẻ đến thành phố khác. Trong suốt thời gian qua, cô ấy đã trách móc và oán giận mẹ nhưng thực lòng cô ấy vẫn rất nhớ mẹ. Cô ấy không nói được điều này với bất cứ ai, chỉ có thể nói cho con cá thái dương nghe. Cô băn khoăn không biết con cá trong truyện cổ giống con cá thái dương kia không? Thấy cái tên “thái dương” thật đặc biệt, cô bèn hỏi không biết đó có phải là tên thật của loài cá này không. Người bán hàng nói mọi người ở đây còn gọi nó là Mola mola. Ngay khi nghe thấy từ Mola mola, tâm trạng căng thẳng nặng nề khi ở Thư viện chữ nổi trong cô mới được giải tỏa. Vì sao cô lại nghĩ đến mẹ khi đang đi tha thẩn giữa những quầy hải sản tươi sống giá rẻ hơn ba lần so với ở Seoul bày bán đủ chủng loại, nào là bạch tuộc sống đầu to hơn đầu người và bào ngư tươi rói, nào là cá bao kiếm, cá thu và cua biển? Có phải chính con cá thái dương đã gợi cô nghĩ đến mẹ khi đi trong chợ hải sản? Cô nhớ lại cảnh cùng mẹ làm cá đuối ngoài giếng để chuẩn bị cho lễ cúng tổ tiên vào tất niên. Bàn tay mẹ lạnh cóng khi bóc lớp da đóng băng dính chặt cứng quanh mình con cá. Cô dừng lại trước cửa hàng có treo một con bạch tuộc đã luộc chín to bằng thân một đứa trẻ và mua một con bạch tuộc còn sống với giá mười lăm nghìn uôn. Cô còn mua thêm mấy con bào ngư vì nghĩ dù là bào ngư nuôi nhưng chúng chỉ ăn tảo bẹ biển và tảo nâu biển. Khi cô nói sẽ mang về tận Seoul, người bán hàng đề nghị cho tất cả vào một hộp giữ lạnh có giá hai nghìn uôn.

Rời chợ hải sản với chiếc hộp đựng con bạch tuộc còn sống và bào ngư trên tay, cô nhận ra vẫn còn lâu mới đến giờ máy bay cất cánh. Một tay cầm túi giấy đựng sách, một tay xách chiếc hộp, cô gọi taxi và bảo tài xế đưa cô ra bãi biển. Chỉ ba phút sau xe đã đến nơi. Bãi biển vào tháng Mười một vắng tanh, chỉ có hai cặp tình nhân đang đi dạo. Bãi cát trải dài mênh mông; khi đi về phía mép nước cô suýt ngã hai lần. Cô ngồi xuống bãi cát phẳng lì nhìn ra mặt biển bao la. Một lát sau cô ngoảnh lại nhìn về phía các dãy cửa hàng và tòa nhà chung cư hướng ra biển bên kia đường. Cô nghĩ vào những đêm hè nóng bức, mọi người ở đây hẳn đều xuống biển nô đùa thỏa thích rồi mới về nhà tắm lại. Trong lúc ngồi ngắm biển, cô lấy một cuốn sách chữ nổi trong túi giấy ra ngồi đọc một cách vô thức. Những chấm trắng khắc sâu vào các trang cứ lấp lánh dưới ánh nắng tháng Mười một.

Đưa tay lần theo những con chữ nổi không sao giải mã được dưới ánh mặt trời, cô ngẫm nghĩ xem ai là người đầu tiên dạy chữ cho mình. Đúng rồi, chính là anh trai thứ của cô. Hôm đó, hai anh em cùng nằm úp sấp trên sàn ngôi nhà cũ. Khi ấy, mẹ cũng ngồi cạnh hai anh em cô. Anh thứ của cô rất hiền và chịu nghe lời mẹ nhất trong số mấy anh em cô. Mẹ đã yêu cầu anh dạy chữ cho cô nên anh không thể làm trái lời mẹ. Anh tỏ vẻ uể oải, hướng dẫn cô viết đi viết lại các nguyên âm, phụ âm và số thứ tự trong tiếng Hàn. Cô cầm bút viết chữ bằng tay trái vì đó là tay thuận của cô. Cứ mỗi lần nhìn thấy cô làm vậy, anh lại lấy cây thước tre to đập vào mu bàn tay cô. Anh làm việc đó cũng theo lệnh của mẹ. Mặc dù cô thuận cả tay trái và chân trái, mẹ thường nói rằng nếu cô cứ dùng tay trái và chân trái thì sẽ có rất nhiều điều trong cuộc sống khiến cô phải rơi nước mắt. Trong bữa ăn, nếu cô dùng tay trái để xới cơm, mẹ sẽ giật lấy muôi mà ấn vào tay phải của cô. Nếu cô vẫn tiếp tục dùng tay trái, mẹ sẽ giằng muôi vụt vào tay trái của cô rồi mắng, “Tại sao con không nghe lời mẹ thế!” Những lần đó tay trái của cô cứ sưng phồng lên. Tuy nhiên, hễ thấy anh trai không để ý là cô lại vội vội vàng vàng chuyển cây bút chì sang tay trái và vẽ hai hình tròn chồng lên nhau tạo thành số 8, rồi nhanh chóng chuyển cây bút chì sang tay phải. Nhưng khi nhìn số 8 do cô viết, anh thứ biết ngay rằng cô vừa chồng hai vòng tròn lên nhau bằng tay trái thế nên anh bắt cô chìa hai tay ra rồi lấy cây thước tre đánh vào lòng bàn tay cô. Mỗi khi anh thứ dạy cô học chữ, mẹ nghĩ cách ngồi khâu tất hay bóc tỏi trên sàn nhà để xem cô nguệch ngoạc. Cô còn nhớ khuôn mặt mẹ rạng rỡ như hoa bạc hà khi thấy cô viết được tên cô và tên mẹ, và cuối cùng còn có thể lắp bắp đọc sách trước khi đến tuổi tới trường. Giờ đây, hình ảnh khuôn mặt ấy đang hiện lên trên những dòng chữ nổi mà cô không sao đọc được. Cô đứng dậy khỏi bãi cát trên bờ biển. Cô vội vàng rảo bước quay lại con đường mà không kịp phủi những hạt cát còn dính đầy quần áo. Cô quyết định không bay về Seoul nữa mà bắt taxi đến thành phố L để đón tàu về thị trấn J thăm mẹ. Vừa đi cô vừa nghĩ đã gần hai mùa rồi cô chưa nhìn thấy gương mặt mẹ.

Hình ảnh lớp học ngày xưa bỗng hiện lên trong đầu cô.

Đó là ngày mà hơn sáu mươi đứa trẻ trong lớp phải điền đơn xin vào trung học bởi nếu hôm đó mà không viết đơn thì sẽ không được vào trung học. Cô là một trong số mấy đứa không chịu điền đơn. Khi ấy cô không hiểu rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô không vào cấp hai. Cô đang cảm thấy day dứt trong lòng. Đêm hôm trước mẹ đã la hét om sòm với bố trong khi bố đang đau ốm nằm bẹp trên giường. Mẹ cô quát ầm lên với bố, “Nhà mình có của ăn của để gì đâu, không cho con gái đi học thì làm sao nó tồn tại được trên đời.” Bố cô ngồi dậy và đi khỏi nhà, mẹ tức giận nhấc cái bàn ăn trên nền nhà ném ra ngoài sân. Mẹ hét lên, “Có trụ cột gia đình để mà làm gì khi ông không cho nổi con mình đi học? Tôi sẽ đập phá tất tần tật!” Cô mong sao mẹ sẽ nguôi giận vì dù không được đi học cô cũng thấy không sao. Chưa nguôi cơn giận sau khi ném cái bàn ra ngoài sân, mẹ mở cửa nhà kho rồi lại đóng sầm vào, đưa tay giật hết đống quần áo trên dây phơi xuống, vò nhàu rồi vứt tung tóe khắp mặt đất. Rồi mẹ đi đến bên cô khi đó đang ngồi co rúm lại bên thành giếng, mẹ cởi chiếc khăn đang đội trên đầu, chìa ra bảo cô xì mũi vào đấy. Cô ngửi thấy mùi mồ hôi lâu ngày khắm khú trong cái khăn lúc nào mẹ cũng quấn trên đầu. Cô không muốn xì mũi, nhất là vào cái khăn nặng mùi đó. Nhưng mẹ vẫn bảo cô xì bằng hết nước mũi ra. Thấy cô ngập ngừng, mẹ bảo cô xì mũi thì cô mới không bật khóc. Chắc nãy giờ cô đứng nhìn mẹ với vẻ mặt như chực khóc. Bảo cô xì mũi là cách mẹ nói cô đừng có khóc. Chẳng từ chối nổi, cô đành phải xì mũi vào cái khăn. Nước mũi của cô quện lẫn mùi mồ hôi của mẹ. Mẹ vẫn đội đúng chiếc khăn ấy đi đến trường. Sau khi mẹ trao đổi gì đó với cô giáo chủ nhiệm, cô giáo đưa tờ đơn xin học tới cho cô. Vừa viết tên vào tờ đơn cô vừa ngẩng đầu lên nhìn ra ngoài lớp học và thấy mẹ đang quan sát cô qua cửa kính ở hành lang. Khi bắt gặp ánh mắt của cô, mẹ cởi chiếc khăn trên đầu ra vẫy vẫy và cười rất tươi. Gần tới hạn đóng học phí cho cô, chiếc nhẫn vàng đeo ở ngón giữa tay trái vốn là món đồ trang sức duy nhất của mẹ đã biến mất. Chỉ có một khoanh tròn trên ngón tay hằn lên do nhiều năm đeo nhẫn còn sót lại.

Cơn đau đầu thường xuyên hành hạ mẹ.

Trong chuyến về thăm nhà đó, lúc nửa đêm khi thức giấc vì cơn khát, cô nhìn thấy những quyển sách của cô hiện ra lờ mờ trong bóng tối. Cô nhớ lại trước khi cùng bạn trai đến Nhật Bản nhân kỳ nghỉ phép dài của anh và ở lại đó một năm với anh, vấn đề lớn nhất đối với cô là bảo quản sách. Cân nhắc mãi, cuối cùng cô quyết định gửi hầu hết số sách cô có được trong mấy năm qua về nhà mẹ. Ngay khi nhận đống sách của cô, mẹ đã dọn sạch một phòng và bày sách trong đó. Từ đó cô không làm sao mang những cuốn sách ấy đi được nữa. Khi về thăm nhà, cô thường vào căn phòng ấy để thay quần áo hoặc để đặt túi xách. Nếu cô ngủ lại qua đêm, mẹ sẽ mang chăn chiếu của cô vào trong đó.

Khi uống nước xong và đang quay lại phòng, thấy băn khoăn không biết mẹ có ngủ được không, cô rón rén bước đến nhẹ nhàng mở cửa phòng mẹ. Hình như trong chăn không có người. Cô khẽ cất tiếng gọi mẹ nhưng không có tiếng trả lời. Cô dò tìm công tắc trên tường và bật đèn lên. Mẹ không có trong phòng. Cô bật điện trong phòng khách rồi mở cửa nhà vệ sinh nhìn vào, nhưng mẹ cũng không có ở trong đó. “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Cô vừa gọi vừa mở cửa trước bước ra ngoài sân. Làn gió ban mai lùa vào trong áo cô. Cô bật điện ngoài sân và liếc nhanh về phía tấm phản gỗ trong nhà kho. Mẹ cô ở đó. Cô lao xuống bậc thềm chạy nhanh qua sân và đến bên mẹ. Mẹ cau mày nhăn nhó y như chiều hôm qua, ngủ lịm đi, một tay đặt lên trán. Mẹ để chân trần. Mười ngón chân đang co quắp lại vì lạnh. Cô có cảm giác những câu chuyện cô chia sẻ với mẹ trong khi đi dạo quanh sân sau bữa cơm tối giản dị đã vỡ vụn. Đó là một buổi sáng sớm tháng Mười một. Cô vào nhà lấy chăn ra đắp cho mẹ. Cô còn mang theo đôi tất và đi vào đôi bàn chân đã lạnh cóng của mẹ. Cô cứ ngồi bên cạnh mẹ cho đến khi mẹ tỉnh dậy.

Nghĩ cách kiếm thêm tiền ngoài làm ruộng, mẹ mang chiếc khuôn làm mạch nha bằng gỗ vào để trong kho. Mẹ lấy toàn bộ số lúa mì thu hoạch được từ ngoài đồng ra xay nhuyễn, hòa với nước rồi đổ vào khuôn làm mạch nha. Khi mạch nha lên men, cả ngôi nhà sực mùi của thứ đó. Không ai thích cái mùi ấy nhưng mẹ bảo đó là mùi của tiền. Trong làng có một nhà làm đậu phụ, khi mẹ mang mạch nha lên men đến cho họ, họ sẽ bán cho nhà máy bia rồi đưa tiền cho mẹ. Mẹ cất số tiền đó vào trong một cái bát sứ màu trắng, sau đó chồng sáu bảy cái bát lên trên rồi đặt lên nóc chạn bát. Cái bát sứ ấy trở thành ngân hàng của mẹ. Mẹ cất tất cả số tiền kiếm được vào trong đó. Mỗi lần cô cầm giấy thông báo nộp tiền ở trường về, mẹ lại lấy số tiền dành dụm để trong chiếc bát sứ ra, đếm đếm rồi giúi vào tay cô.

Tầm giữa buổi sáng, khi mở mắt tỉnh dậy, cô thấy mình đang nằm ngủ trên tấm phản trong nhà kho. Mẹ đâu rồi? Mẹ không ở loanh quanh đó, nhưng cô nghe thấy tiếng dao thớt vọng ra từ trong bếp. Cô ngồi dậy đi vào trong bếp. Mẹ cô đang thái củ cải. Cách mẹ cầm con dao trong tay trông rất nguy hiểm, không hề giống cách mẹ thái củ cải để làm món củ cải trộn một cách điệu nghệ mà không cần nhìn xuống. Bàn tay mẹ cầm con dao không chắc chắn, con dao cứ liên tục trượt khỏi củ cải bập xuống mặt thớt. Cứ thế này không chừng mẹ cắt vào ngón tay cái mất. “Mẹ! Đợi đã.” Thấy không ổn, cô vội nắm lấy con dao trong tay mẹ. “Mẹ để con làm cho,” cô nói và đi đến trước cái thớt. Mẹ cô đứng tần ngần một lúc rồi lùi ra xa cái thớt. Con bạch tuột mềm oặt đã chết nằm trong cái rổ sắt đặt ở chậu rửa bát. Trên bếp ga đã đặt sẵn chiếc nồi hấp. Hình như mẹ định lót củ cải dưới đáy nồi để hấp con bạch tuộc. Cô định hỏi sao mẹ không luộc tái con bạch tuộc mà lại hấp, nhưng rồi lại thôi. Mẹ rải những lát củ cải cô đã thái xuống đáy rồi đặt một cái chõ sắt vào trong nồi. Cô cho nguyên cả con bạch tuộc lên chõ rồi đậy nắp vung lại. Xưa nay mẹ toàn chế biến hải sản như thế. Mẹ không thạo về cá mú cho lắm. Mẹ không bao giờ gọi được chính xác tên các loài cá. Với mẹ, cá thu, cá diu đao hay cá bao kiếm đều chỉ là cá mà thôi. Nhưng ngược lại, mẹ rất giỏi phân biệt các loại đậu: đậu tây, đậu nành, đậu trắng, đậu đen. Mỗi khi có cá, mẹ không bao giờ thái mỏng làm gỏi hay nướng hay kho, mà lúc nào cũng ướp với muối để hấp. Thậm chí cả với cá thu hay cá bao kiếm cũng thế, mẹ nêm cá với xì dầu có ớt bột, tỏi và hạt tiêu rồi đặt trên đĩa để hấp trên nồi cơm. Mẹ không giờ động đến món gỏi cá. Nếu thấy ai ăn cá sống, mẹ sẽ nhìn họ với vẻ mặt ghê ghê mà nói, “Họ làm gì kinh thế nhỉ?” Từ năm mười bảy tuổi mẹ đã hấp cá đuối, thế nên với con bạch tuộc mẹ cũng muốn làm như vậy. Chẳng mấy chốc mùi bạch tuộc và củ cải hấp đã lan tỏa cả gian bếp. Nhìn mẹ hấp món bạch tuộc trong bếp, cô lại nghĩ đến con cá đuối.

Người quê cô luôn có món cá đuối trong mâm cơm cúng tổ tiên. Một năm của mẹ cô trôi đi với việc làm cơm cúng tổ tiên một lần vào mùa xuân, hai lần cho mỗi mùa đông và mùa hạ. Như vậy nếu tính cả Tết và Trung thu, mỗi năm mẹ phải ngồi bên giếng để làm bảy con cá đuối. Những con cá đuối mẹ mua thường to bằng cái vung nồi lớn. Cứ khi nào mẹ cô đi chợ mua cá đuối đỏ về đặt ngoài sân giếng để chuẩn bị mổ, có nghĩa là ngày lễ đã đến. Vào ngày lễ tạ mùa đông, tiết trời lạnh giá đến mức nước vừa đổ vào xoong đã đóng thành băng, công việc lột da cá đuối hết sức vất vả. Bàn tay cô nhỏ bé còn bàn tay mẹ thô kệch do lao động vất vả. Khi mẹ đưa đôi bàn tay đỏ tấy lên vì lạnh lướt dao trên lớp da con cá đuối, cô sẽ dùng những ngón tay nhỏ bé của mình kéo miếng da ra. Sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu hai mẹ con bóc được lớp da liền một tấm, nhưng lúc nào họ cũng phải bóc thành nhiều mảnh. Mẹ sẽ lia dao một lần nữa lên mình con cá và toàn bộ quá trình trên lặp lại. Hình ảnh cô và mẹ phủ bọc trong một lớp băng mỏng ngồi ngoài sân giếng lột da cá đuối là hình ảnh đặc trưng trong mùa đông của nhà cô. Công việc lột da cá đuối diễn ra hằng năm cứ như bộ phim được chiếu đi chiếu lại. Mùa đông năm nọ, mẹ nhìn chằm chằm vào đôi bàn tay đã lạnh cóng của cô khi cô ngồi đối diện với mẹ mà nói, “Không lột da thì đã làm sao chứ,” rồi mẹ thôi không lột da con cá đuối nữa mà dùng dao chặt khúc con cá. Đó là lần đầu tiên trong mâm cơm ngày lễ thấy có món cá đuối còn để nguyên cả da. Bố cô hỏi, “Con cá đuối này làm sao vậy?” Mẹ cô đáp, “Vẫn là con cá đuối thôi, chỉ có điều không lột da.” Bà bác càu nhàu tỏ vẻ không hài lòng, “Bữa cơm cúng thì phải làm cho chu đáo chứ.” “Vậy bác đi mà làm,” mẹ đốp trả ngay. Năm đó, cứ có điều gì không hay xảy ra, mọi người lại lôi chuyện con cá đuối không lột da ra. Khi thấy cây hồng trước sân không ra quả, khi anh trai cô chơi khăng bị con khăng đập vào mắt, khi bố cô phải nằm viện, rồi ngay cả khi có người họ hàng đánh nhau, bà bác đều đay nghiến rằng đó là do mẹ không lột da con cá đuối, không thành tâm khi làm cơm cúng tổ tiên.

Mẹ đặt con bạch tuộc đã hấp chín lên thớt rồi cố thái. Nhưng con dao cứ trượt đi y như khi mẹ thái củ cải. Cô lại cầm lấy con dao và bảo mẹ để cô làm cho. Cô thái con bạch tuộc nóng hổi thơm mùi củ cải rồi lấy một miếng chấm vào bát giấm ớt đưa cho mẹ. Dạo xưa trước mỗi bữa ăn mẹ luôn làm thế với cô. Những lúc như vậy cô thường chìa đũa ra gắp miếng thức ăn từ tay mẹ, nhưng mẹ cô bảo, “Dùng đũa gắp thì thức ăn sẽ mất ngon đấy, cứ há miệng ra mẹ đút cho.” Mẹ đưa đũa ra gắp lấy miếng bạch tuộc từ tay cô. Cô nói với mẹ, “Nếu ăn như vậy thức ăn sẽ mất ngon, mẹ cứ há miệng ra con đút cho.” Cô nhẹ nhàng đút miếng bạch tuộc vào cái miệng đang há to của mẹ. Cô cũng bốc một miếng bỏ vào miệng mình. Miếng bạch tuộc hấp vẫn đang còn nóng hổi, chín mềm và thơm phức. Cô nghĩ bụng bữa sáng chỉ ăn mỗi bạch tuộc sao? Nhưng rồi cả hai mẹ con tiếp tục đứng trong bếp bốc bạch tuộc trên thớt ăn vã. Vừa nhai miếng bạch tuộc cô vừa nhìn bàn tay mẹ khi mẹ cố cầm một miếng bạch tuộc lên nhưng cứ làm rơi. Cô cầm miếng khác lên đút cho mẹ. Sau đó mẹ thôi không tự bốc ăn nữa mà chờ đợi cô đút cho. Hình như bàn tay mẹ không thể tự điều khiển được nữa. “Omoni,” cô vừa nhai vừa gọi mẹ. Đây là lần đầu tiên cô gọi mẹ là Omoni thay vì Omma. “Hôm nay mẹ lên Seoul với con nhé!” cô nói. Nhưng mẹ lại rủ cô đi leo núi.

“Núi ư?”

“Ừ, núi.”

“Nhưng ở đây đâu có đường mòn để leo?”

“Mẹ đã tìm thấy một con đường rồi.”

“Lên Seoul rồi con đưa mẹ đi khám.”

“Để sau cũng được.”

“Để sau là đến khi nào?”

“Đợi cháu của con thi cử xong đã.” Mẹ đang nhắc đến con gái của anh Hyong-chol.

“Không cần anh ấy, con đưa mẹ đến bệnh viện khám cũng được.”

“Không sao đâu, mẹ vẫn khỏe mà. Mẹ đang đi khám ở chỗ bác sĩ Đông y và cũng đang áp dụng vật lý trị liệu.”

Cô không thể thuyết phục được mẹ. Mẹ cứ một mực nói để sau này sẽ đi. Mẹ nhìn cô chằm chằm và hỏi, “Đất nước nào nhỏ nhất trên thế giới?”

“Đất nước nhỏ bé nhất ư?” Lần này đến lượt cô nhìn mẹ chằm chằm vì quá đỗi ngạc nhiên, không hiểu vì sao tự nhiên sao mẹ lại hỏi thế. Cô nghĩ mãi về câu hỏi của mẹ, “Đất nước nào nhỏ nhất trên thế giới?”

Rồi mẹ lại lơ đễnh hỏi tiếp, “Khi nào con đến đất nước ấy nhớ mua cho mẹ một chuỗi tràng hạt hoa hồng nhé!”

“Chuỗi tràng hạt hoa hồng ấy ạ?”

“Là chuỗi tràng hạt được làm từ gỗ hồng mộc ấy.” Mẹ nhìn cô với ánh mắt thẫn thờ.

“Mẹ cần chuỗi tràng hạt à?”

“Không, mẹ chỉ muốn có chuỗi tràng hạt của đất nước đó.” Mẹ ngừng nói và thở dài. “Nếu có khi nào con đến đất nước đó, nhớ mua cho mẹ một chuỗi.”

Cô không nói gì.

“Vì con có thể đi đến mọi nơi mà.”

Câu chuyện với mẹ kết thúc ở đó. Khi ở trong bếp mẹ không nói thêm một lời nào nữa. Sau khi ăn sáng với món bạch tuộc hấp, cô cùng mẹ ra khỏi nhà. Hai mẹ con băng qua mấy thửa ruộng trên sườn đồi vòng quanh phía sau lưng ngôi làng và bước lên con đường mòn. Mặc dù mọi người không đi con đường đó, nó vẫn rất quang đãng. Những lớp lá sồi rụng đầy trên mặt đất êm như nhung dưới chân hai mẹ con. Đôi khi đang đi, những cành cây rủ xuống lòa xòa quệt cả vào mặt. Mẹ đi trước dùng tay gạt những cành cây thấp để lấy lối cho cô. Khi cô đi qua, mẹ lại nhẹ nhàng bỏ cành cây ra. Một con chim giật mình bay vụt ra khỏi lùm cây.

“Mẹ thường đến đây à?”

“Ừ.”

“Mẹ có đi cùng ai không?”

“Không có ai cả. Lấy đâu ra người đi cùng với mẹ chứ.”

Mẹ đi một mình trên con đường này sao? Thêm một lần nữa, thực sự cô không thể nói là cô hiểu mẹ. Con đường quá tối tăm hẻo lánh cho bất kỳ ai đi một mình. Một số chỗ tre pheo ken dày đến mức bầu trời như thể biến mất tiêu.

“Sao mẹ lại đi một mình trên con đường này?”

“Mẹ đến đây một lần sau khi bác con mất rồi từ đó thành thử hay quay lại.”

Đi được một lát, mẹ dừng bước trên một ngọn đồi. Khi bước đến bên cạnh và nhìn theo hướng mẹ đang nhìn, cô reo lên, “A, thì ra là con đường này.” Hóa ra là con đường mà cô đã quên từ lâu. Đó là con đường tắt sang nhà bà ngoại mà hồi nhỏ cô vẫn thường đi. Ngay cả khi đã có một con đường lớn chạy ngang qua làng, mọi người vẫn hay đi lại trên con đường núi này. Một lần nhà bà ngoại cô cúng đơm, cô buộc một con gà vào sợi dây thừng rồi dắt sang nhà bà trên con đường này. Cô để tuột dây làm sổng mất con gà rồi phải tìm dáo dác khắp nơi mà cuối cùng chẳng thấy. Con gà ấy đã chạy đi đâu nhỉ? Con đường mòn đã thay đổi đến thế này sao? Trước đây có nhắm mắt cô cũng đi được trên con đường này, thế mà bây giờ nếu không có ngọn đồi chắc cô đã không thể nhận ra nó. Mẹ cô đứng trên đó, dõi mắt nhìn về phía nhà bà ngoại ngày xưa. Không còn ai sống ở đó nữa. Tất cả mọi người trong ngôi làng vốn phải đếm được năm mươi nóc nhà ấy giờ đã chuyển đi hết. Dù làng còn sót lại vài ngôi nhà trống chưa bị phá nhưng không hề có dấu hiệu của sự sống. Thế là mẹ đã đến đây một mình để nhìn xuống ngôi làng chôn nhau cắt rốn giờ đã bị bỏ hoang sao? Cô vòng tay ôm ngang người mẹ và lại đề nghị mẹ lên Seoul cùng cô. Mẹ không trả lời cô mà lại nhắc đến chuyện con chó. Từ lúc để ý thấy con chó không ở trong chuồng cô rất băn khoăn nhưng chưa có cơ hội để hỏi.

Mùa hè năm trước, khi về thăm nhà cô đã thấy một con chó đang được xích bên cạnh nhà kho. Trời nắng chang chang và sợi dây xích ngắn đến mức dường như con chó có thể chết toi bất cứ lúc nào. Cô bảo mẹ tháo sợi dây xích cho con chó nhưng mẹ nói nếu tháo ra thì mọi người sẽ sợ mà không dám qua chơi. Cô bực bội nghĩ làm sao mẹ có thể xích con chó như thế được chứ, nhất là khi lại ở nông thôn... Vì con chó mà vừa về đến nhà chưa kịp chào hỏi gì cô đã cãi nhau với mẹ. Cô bảo mẹ đừng xích con chó, cứ để cho nó đi lại tự do. Còn mẹ thì khăng khăng rằng chẳng có ai, kể cả ở nông thôn, nuôi chó mà thả rông cả, nhà nào cũng xích, nếu không nó sẽ chạy mất. Cô vặn lại, “Nếu vậy phải làm cái dây xích dài hơn chứ, nếu cứ xích sát cổ nó vậy, trời nóng thế này nó sống làm sao được? Vì nó chỉ là con vật không biết nói nên mẹ đối xử với nó như vậy à?” Mẹ bảo trong nhà chỉ có mỗi sợi dây xích ấy thôi. Đó là sợi dây xích mẹ đã từng xích con chó trước. “Thế thì mẹ phải mua một sợi chứ!” Thế là mặc dù đã lâu lắm rồi mới về quê, cô không bước vào nhà mà quay xe vào thị trấn tìm mua một sợi dây xích thật dài để con chó có thể chạy loanh quanh trong sân sau. Mua dây xích về, cô lại thấy cái chuồng chó quá bé. Cô lại quay ra, nói với mẹ là cô sẽ đi mua một chiếc chuồng to hơn. Mẹ cô ngăn lại bảo ở làng bên có ông thợ mộc, mẹ sẽ nhờ ông ấy đóng cho một chiếc chuồng khác. Mẹ cô không bao giờ có thể nghĩ đến việc phải bỏ tiền ra mua chuồng cho một con vật nuôi. Mẹ nói, “Nhà mình có đầy ván gỗ, chỉ cần khéo đóng là có chuồng ngay, sao con lại phải bỏ tiền cho thứ đó chứ? Cứ như thể con có tiền rơi tiền vãi ấy.” Trước khi trở lại thành phố, cô đưa cho mẹ hai tờ ngân phiếu mười nghìn uôn và bắt mẹ hứa sẽ đóng một cái chuồng chó to hơn. Mẹ cô cầm lấy tiền và hứa sẽ làm như thế. Sau khi lên Seoul, cô mấy lần gọi điện hỏi mẹ đã đóng cái chuồng chó mới chưa. Lần nào mẹ cũng nói dối là mẹ đang định làm, nhất định sẽ làm. Đến lần thứ tư gọi điện và vẫn nhận được câu trả lời như vậy, cô nổi khùng lên.

“Chẳng phải con đã đưa tiền cho mẹ rồi à. Người nhà quê thật khó chịu. Con chó không đáng thương hay sao? Làm sao nó sống được trong cái chuồng chật hẹp như vậy, nhất là khi trời nắng nóng thế này? Phân đầy trong chuồng làm nó giẫm hết cả lên mà mẹ cũng không buồn dọn. Làm sao một con chó to như thế sống được trong cái chuồng nhỏ như vậy? Không làm chuồng mới thì mẹ thả nó ra ngoài sân đi! Con chó không đáng thương hay sao?”

Đầu dây bên kia hoàn toàn im lặng. Cô bắt đầu cảm thấy ân hận vì đã nói câu, “Người nhà quê thật khó chịu.”

Một lúc sau, giọng nói đầy tức giận của mẹ vang lên trong điện thoại. “Cô chỉ quan tâm đến con chó chứ quan tâm gì đến mẹ cô! Cô nghĩ mẹ cô là kiểu người đối xử tệ với con chó thế à? Cô không cần dạy tôi phải làm gì. Tôi nuôi nó theo cách của tôi!” Nói xong mẹ cô dập điện thoại trước.

Chương 1: Không ai biết(4)

Xưa nay cô luôn là người cúp máy trước. Trước khi cúp máy, cô thường nói với mẹ rằng sẽ gọi lại cho mẹ sau nhưng rất nhiều lần cô đã không gọi lại. Cô không có thời gian để ngồi nghe hết những lời mẹ muốn nói. Nhưng lần này mẹ đã dập điện thoại trước. Đây cũng là lần đầu tiên kể từ sau khi cô xa nhà mẹ nổi nóng với cô như vậy. Từ khi cô xa nhà, mẹ thường nói, “Mẹ xin lỗi.” Mẹ cũng hay nói rằng, “Mẹ thật có lỗi khi phải gửi con lên sống với anh Hyong-chol vì mẹ không lo cho con đầy đủ được.” Mẹ cũng là người luôn cố hết sức để kéo dài cuộc trò chuyện mỗi khi cô gọi về. Tuy nhiên dù mẹ dập điện thoại trước cô cũng không cảm thấy thất vọng như với cách mẹ nuôi con chó ở nhà. Cô nghĩ, Tại sao mẹ lại thành ra thế chứ? Mẹ vốn rất quan tâm đến mọi con vật nuôi trong nhà mà. Nhiều khi mẹ lên Seoul với ý định ở lại dài ngày nhưng chưa được ba bữa mẹ đã nằng nặc đòi về chăm con chó. Vậy mà sao giờ mẹ lại có thể vô tâm đến khó hiểu như vậy? Cô cảm thấy rất giận hành động của mẹ.

Mấy ngày sau, mẹ chủ động gọi điện cho cô. “Con không phải là con của ngày xưa nữa, con đã trở thành một người quá lạnh lùng. Nếu mẹ dập điện thoại như vậy, cho dù thế nào con cũng phải gọi lại cho mẹ chứ, sao con lại cứng đầu cứng cổ như thế?”

Đó không phải là vì cô cứng đầu cứng cổ. Cô không có thời gian để nghĩ mãi về việc đó như thế. Mỗi lúc nhớ lại khi mẹ tức giận dập bộp máy, cô nghĩ mình phải gọi điện cho mẹ mới được, nhưng rồi vì bận việc này hay việc khác nên rốt cuộc cô vẫn chưa gọi.

“Những người có học đều xử sự như thế à?” mẹ nói thêm câu đó rồi lại dập điện thoại.

Khi cô về nhà vào dịp tết Trung thu, bên cạnh nhà kho đã đặt một cái chuồng chó to. Dưới nền chuồng còn rải một lớp rơm mềm.

Mẹ cô bắt đầu kể lại. “Hồi cuối tháng Mười, khi mẹ đang vo gạo ở bồn rửa bát trong bếp để chuẩn bị bữa sáng, bỗng có ai đó cứ vỗ liên tục vào lưng mẹ. Mẹ quay lại nhưng không có ai cả. Suốt ba ngày liền đều như vậy. Mẹ cảm thấy rõ ràng có cánh tay vỗ liên tục như đang gọi mẹ nhưng khi ngoảnh lại thì không có ai hết. Cho đến tận ngày thư tư. Buổi sáng hôm đó, ngay khi ngủ dậy mẹ đi xuống nhà tắm và thấy một con chó đang nằm cạnh bồn vệ sinh. Con chỉ biết giận mẹ và nói mẹ đối xử tệ với con chó, nhưng con có biết đâu nó là con chó thường lang thang kiếm ăn ở cạnh đường tàu, khắp mình ghẻ lở. Mẹ thấy thương hại mới mang nó về nhà xích lại để chăm sóc cho nó. Vì nếu không nhốt, nó lại chạy đi đâu đó rồi người ta sẽ bắt nó làm thịt cũng chưa biết chừng... Hôm đó nó không hề động đậy. Ban đầu mẹ tưởng nó đang ngủ. Mẹ lay thế nào nó cũng không dậy. Nó chết rồi. Mới hôm trước, nó vẫn ăn cơm ngon lành, cái đuôi vẫn còn vẫy vẫy thế mà khi ấy đã chết, bộ dạng chẳng khác gì đang ngủ cả. Mẹ không biết bằng cách nào nó thoát được dây xích. Hồi đầu mới về nhà, nó gầy trơ xương. Được chăm sóc, nó béo ú lên, bộ lông càng ngày càng mượt bóng. Nó khôn lắm, ngay cả chuột chũi nó cũng bắt được.” Mẹ ngừng kể và thở dài. “Người ta nói rằng nếu cưu mang con người thì rồi sẽ thành ra nuôi ong tay áo thôi, còn nếu cưu mang chó thì con chó sẽ báo đáp chủ. Mẹ nghĩ nó đã đi thay mẹ.”

Lần này đến lượt cô thở dài.

“Mùa xuân năm trước, mẹ có tặng tiền cho một thầy tu đi ngang qua nhà, ông ấy đã nói rằng trong năm nay gia đình chúng ta sẽ mất đi một thành viên. Nghe những lời đó trong lòng mẹ rất lo lắng. Suốt cả năm qua, mẹ không thôi nghĩ về lời nói ấy. Mẹ cứ nghĩ rằng thần chết sẽ đến mang mẹ đi, nhưng bởi vì lần nào mẹ cũng bận vo gạo nấu cơm nên thần chết đã bắt con chó thay thế.”

“Mẹ đang nói về cái gì thế? Suốt ngày mẹ đến nhà thờ mà lại đi tin vào những lời đó à?” Cô chợt nghĩ đến cái chuồng chó trống không bên cạnh nhà kho và cái dây xích đã nằm chỏng chơ trên mặt đất. Trong lòng buồn bã, cô đưa tay ôm ngang hông mẹ.

“Mẹ đã đào một cái hố sâu trước sân để chôn con chó.”

Mẹ là người kể chuyện rất hay. Vào đêm trước hôm làm cơm cúng, bà bác và các thím thường mang sang một bát gạo. Thời đó lương thực thực phẩm còn khan hiếm nên tất cả mọi người đều phải góp phần. Cúng đơm xong, mẹ sẽ cho đầy cơm vào những chiếc bát đó để họ mang về nhà. Sau khi cúng, với một dãy bát cơm đặt bên cạnh, mẹ kể với mọi người rằng có một đàn chim đã bay đến đậu lên cơm một lúc rồi lại bay đi. Nếu họ không tin, mẹ sẽ bảo, “Tôi tận mắt nhìn thấy mà! Có sáu con cả thảy. Đàn chim chính là các cụ nhà mình về ăn cơm cúng đấy!” Mọi người cười ầm lên, nhưng cô lại nghĩ cô có thấy những vết chân trên bát cơm trắng ngần. Một lần, mẹ mang theo một chút đồ ăn rồi ra đồng rất sớm, nhưng khi đến mảnh ruộng của nhà, đã có ai đó đến trước và đang cắm cúi nhổ cỏ. Mẹ hỏi xem người đó là ai, người đó nói chỉ là người qua đường, thấy ruộng nhiều cỏ quá nên xuống nhổ giúp. Mẹ và người khách lạ cùng nhau nhổ cỏ. Buổi trưa, để tỏ lòng cảm kích mẹ chia phần cơm mang theo cho người đó ăn cùng. Cả ngày hôm ấy mẹ cùng người khách lạ vừa cùng nhau nhổ cỏ vừa chuyện trò huyên thuyên, đến tận khi trời tối mới chia tay nhau. Khi từ đồng về, mẹ kể chuyện cùng người khách lạ nhổ cỏ cả ngày cho bà bác nghe, bà bác cứng đờ người, vội hỏi mẹ xem hình dáng người khách lạ đó trông thế nào. Rồi bà bác bảo mẹ, “Chắc là ông chủ cũ của mảnh ruộng đó rồi, ông ta đã chết vì say nắng khi đang nhổ cỏ trên mảnh ruộng ấy.” Nghe xong câu chuyện, cô hỏi mẹ, “Ở trên đồng với một người đã chết cả ngày trời như thế mẹ có sợ không?” Mẹ vui vẻ trả lời, “Sợ gì chứ. Nếu chỉ có một mình nhổ cỏ phải mất hai ba ngày mới xong, nên mẹ chỉ thấy biết ơn ông ấy vì đã giúp đỡ một tay thôi.”

Chứng đau đầu dường như đang dần gặm nhấm mẹ. Mẹ nhanh chóng mất đi sinh khí và bản tính chan hòa, mẹ bắt đầu hay phải nằm nghỉ hơn. Thậm chí mẹ còn không thể tập trung vào trò chơi bài cá cược một trăm uôn dù đó là một trong những trò giải trí hiếm hoi của mẹ. Thêm vào đó, mẹ cô cũng dần mất cảm giác với mọi thứ. Có lần, sau khi đặt nồi giẻ lau lên bếp ga để đun, mẹ ngồi phịch xuống nền bếp và không thể đứng dậy được. Nước bốc hơi hết khiến đống giẻ lau bốc cháy và cả gian bếp mù mịt khói, thế nhưng mẹ cô vẫn không thể tỉnh trí lại được. Ngôi nhà chắc đã cháy rụi rồi nếu bác hàng xóm không nhìn thấy cột khói bốc lên và vội vã chạy sang xem chuyện gì đang xảy ra.

Có lần em gái cô - giờ đã là mẹ của ba đứa con - hỏi cô một cách nghiêm túc về người mẹ đang bị chứng đau đầu hành hạ, “Chị có nghĩ mẹ thực sự thích ở dưới bếp không?”

“Sao em lại hỏi vậy?”

“Chẳng hiểu sao em cứ nghĩ mẹ không thích ở dưới bếp.”

Em gái cô là dược sĩ, nó mở hiệu thuốc khi đang mang thai đứa con đầu lòng. Chị dâu cô chăm sóc đứa cháu đó, nhưng chị ấy sống cách xa hiệu thuốc. Đứa bé sống với chị dâu cô suốt một thời gian dài. Rất thương con nhưng em gái cô phải trông hiệu thuốc nên chỉ được gặp con mỗi tuần một lần. Cảnh tượng em gái cô và đứa con tạm biệt sau những lần gặp nhau vô cùng cảm động. Chẳng có cuộc chia tay nào buồn bã hơn thế trên đời. Nhưng trong hoàn cảnh đó dường như em gái cô gặp nhiều khó khăn hơn đứa trẻ. Đứa trẻ thích ứng khá tốt với cuộc sống vắng mẹ, nhưng với em gái cô thì khác, lúc lái xe về nhà sau khi đưa con trở lại nhà chị dâu khi ngày nghỉ cuối tuần kết thúc, em gái cô cứ khóc sướt mướt, nước mắt ướt đẫm cả hai bàn tay ghì chặt trên bánh lái, rồi sáng thứ Hai em gái cô đứng trong hiệu thuốc với đôi mắt sưng húp vì khóc. Mỗi lúc nhìn thấy nó bệ rạc tới vậy cô lại bực bội nói, “Đã như thế em còn bán thuốc làm gì?” Mãi đến khi chồng nó sang Mỹ hai năm để làm nghiên cứu sinh, nó mới đóng cửa quầy thuốc, công việc mà nó làm đến tận tới sau khi sinh đứa con thứ hai. Em gái cô nghĩ rằng cuộc sống bên Mỹ sẽ là một trải nghiệm quý báu cho lũ trẻ, cô cũng bảo em gái nên gác lại mọi chuyện cơm áo gạo tiền ở Seoul để đi cùng chồng sang Mỹ và tranh thủ nghỉ ngơi trong thời gian ở bên ấy. Nó chưa một lần được nghỉ ngơi kể từ khi lập gia đình. Nó sinh thêm một đứa con nữa ở bên Mỹ rồi mới về nước. Việc cơm nước cho gia đình năm người đều do một tay nó đảm đương. Nó kể rằng có lần chỉ trong một tháng mà gia đình nó ăn hết hai trăm con cá đù.

“Ăn hết hai trăm con cá đù trong một tháng? Ngày nào nhà em cũng ăn mòn cá đù sao?” cô hỏi, và cô em gái trả lời là đúng thế.

Đó là thời kỳ trước khi đồ đạc của gia đình từ Mỹ được gửi về, ngôi nhà mới chuyển đến vẫn còn xa lạ, em gái cô không có thời gian rỗi để đi chợ vì đứa con thứ ba vẫn đang còn bú mẹ. Mẹ chồng nó gửi lên cho một thùng cá đù ướp muối phơi khô, chưa đầy mười ngày cả nhà đã ăn hết sạch. Nó cười bảo, “Nấu cháo đậu em cũng cho cá đù, nấu canh bí ngô xanh cũng cho cá đù, món nào nhà em cũng có cá đù.” Khi hỏi mẹ chồng xem mua cá đù ở chỗ nào, cô em gái mới biết rằng có thể đặt mua hàng qua mạng. Thùng cá đù đầu tiên ấy ăn không được bao lâu, thế nên nó đặt mua luôn hai thùng.

Em gái cô kể rằng, “Khi cá đù về, em vừa rửa vừa đếm, tất cả là hai trăm con. Sau khi rửa sạch, cứ bốn năm con em lại cho vào một túi nylon rồi bỏ vào tủ đông lạnh để thuận tiện khi nấu, và khi đó đột nhiên em muốn quẳng tất cả xuống sàn nhà cho xong. Em chợt nhớ đến mẹ và băn khoăn không biết trong suốt bao nhiêu năm ngày nào cũng cặm cụi trong gian bếp cũ để lo cơm nước cho đại gia đình, lòng mẹ cảm thấy thế nào? Mà chị có nhớ chúng ta đã ăn bao nhiêu không? Mỗi bữa mẹ đều dọn hai mâm cơm đầy cho cả nhà đấy. Chị có nhớ nồi cơm nhà mình to cỡ nào không. Mẹ phải đóng hộp cơm trưa cho tất cả anh chị em mình, với bao nhiêu món làm từ những thứ rau dưa mẹ kiếm được trên vườn ruộng... làm sao hằng ngày một mình mẹ đảm đương hết từng đó việc nhỉ? Với lại bố còn là con trưởng nên lúc nào trong nhà cũng có thêm mấy người họ hàng ở cùng chúng ta. Em nghĩ mẹ chẳng thích quẩn quanh bếp núc tí nào đâu.”

Những lời của em gái khiến cô phải giật mình. Cô chưa bao giờ nghĩ đến hình ảnh mẹ không gắn liền với gian bếp. Mẹ là bếp và bếp cũng chính là mẹ. Chưa khi nào cô tự hỏi, mẹ có thích quẩn quanh bếp núc không?

Để kiếm tiền, mẹ đã làm đủ nghề, từ nuôi tằm, ủ mạch nha cho đến giúp làm đậu phụ. Nhưng cách tốt nhất để có tiền là không tiêu tiền, vì thế mẹ rất tiết kiệm. Đôi khi mẹ còn bán cả cây đèn cũ, viên đá kỳ cũ, cả chum vại cũ... cho những người mua đồ cũ từ nơi khác đến. Họ muốn mua những thứ đồ cũ mẹ đang dùng và mặc dù chẳng thấy mấy thứ đó có gì ghê gớm, mẹ vẫn đội giá lên rồi mặc cả như một người bán hàng thực sự. Lúc đầu có vẻ như mẹ bị lấn lướt nhưng về sau mẹ luôn giữ thế chủ động. Mẹ sẽ lẳng lặng lắng nghe yêu cầu của người mua rồi nói, “Thế thì chỉ cần đưa tôi bằng này tiền thôi.” Khi đó họ sẽ chế nhạo, “Ai mà đi bỏ từng đó tiền để mua cái thứ vô dụng ấy chứ?” Mẹ bèn vặn lại, “Thế thì ông đi đông đi đoài mua cái thứ này làm gì?” Nói rồi mẹ cầm món đồ lên vờ như không muốn bán. Những người mua đồ cũ lẩm bẩm bảo mẹ buôn bán rắn thế, nhưng rồi cũng đành trả tiền theo giá mẹ yêu cầu.

Khi phải mua thứ gì, mẹ không bao giờ trả đúng giá. Hầu hết mọi thứ mẹ đều tự làm lấy, thế nên khi nào mẹ cũng luôn tay luôn chân. Mẹ khâu vá, đan lát, không lúc nào hết việc đồng áng. Mẹ không bao giờ bỏ trống ruộng vườn. Vào mùa xuân, mẹ gieo hạt khoai tây trên các luống cày, trồng rau diếp, hoa cúc, cẩm quỳ, hẹ, các loại ớt và ngô. Mẹ đào những cái hốc nhỏ dưới hàng rào để trồng bí ngô xanh, tra hạt đậu xung quanh vườn. Mẹ còn trồng cả vừng, dâu tằm và dưa chuột. Suốt cả ngày mẹ không ở trong bếp thì ở ngoài vườn hoặc ngoài cánh đồng. Mẹ dỡ khoai tây, khoai lang, hái bí ngô xanh, nhổ bắp cải và củ cải đỏ. Công việc lao động của mẹ cho thấy rằng nếu không gieo hạt giống sẽ không có gì để thu hoạch. Chỉ những thứ không thể nảy nở từ hạt giống mẹ mới bỏ tiền ra mua. Vào những ngày xuân, ngoài sân lúc nào cũng thả bầy gà vịt, trong chuồng có cả đàn lợn con béo tròn mũm mĩm.

Có năm, con chó đẻ được chín chú cún con. Khoảng một tháng sau, mẹ chỉ để lại hai con để nuôi, những con còn lại mẹ cho cả vào thúng. Nhưng cái thúng nhỏ quá, chỉ đặt được sáu con, mẹ bế con cuối cùng đặt vào tay cô và bảo cô ôm nó đi theo mẹ. Trên chiếc xe buýt cô đi cùng mẹ đông nghịt những người là người, họ cũng vào trong thị trấn để bán đồ như hai mẹ con cô. Họ mang theo cả những bao tải to đựng ớt khô, vừng khô và đậu đen. Cả những chiếc thúng nặng trĩu bắp cải và củ cải đỏ. Họ ngồi thành hàng trước bến xe buýt của thị trấn đợi những người khách qua lại trao đổi mua bán. Cô đặt con chó đang ôm trên tay vào trong cái thúng cùng bầy chó đang rung rúc. Cô ngồi xuống bên cạnh mẹ để chờ bán những chú chó con. Với sự chăm sóc chu đáo của mẹ trong suốt một tháng, mấy chú chó con đều béo tròn khỏe mạnh. Trông chúng thật hiền lành, không hề có tâm lý cảnh giác hay thù địch đối với mọi người. Lũ chó con nhìn ngó và ngoáy tít đuôi với những người ngồi túm tụm quanh cái thúng rồi liếm liếm bàn tay họ. Những con chó của mẹ bán hết nhanh hơn củ cải đỏ, bắp cải hay đậu. Ngay sau khi bán xong con chó cuối cùng, mẹ đứng dậy vặn mình rồi quay sang cô và hỏi cô thích cái gì. Cô nắm tay mẹ và ngước mắt nhìn mẹ vẻ ngạc nhiên, hầu như chẳng bao giờ mẹ hỏi cô như vậy.

“Mẹ bảo là con có thích cái gì không?”

“Sách ạ!”

“Sách ư?”

“Vâng, sách!”

Mẹ tỏ vẻ khó hiểu trước yêu cầu của cô. Mẹ nhìn cô hồi lâu rồi hỏi nơi bán sách ở đâu. Cô đi trước dẫn mẹ đến hiệu sách ở cổng chợ, chỗ ngã năm. Mẹ không bước vào hiệu sách nhưng dặn cô rằng chỉ được chọn một quyển, hỏi xem bao nhiêu tiền rồi ra nói với mẹ. Dù khi mua một đôi dép cao su mẹ cũng thử hết đôi này đến đôi kia rồi cuối cùng vẫn trả thấp hơn giá người bán hàng đưa ra, thế nhưng với sách thì mẹ lại bảo cô cứ chọn một cuốn đi, như thể mẹ sẽ không kỳ kèo mặc cả vậy. Đột nhiên cô có cảm giác hiệu sách giống như một đồng cỏ và hoàn toàn không biết mình nên chọn quyển sách nào. Lý do cô muốn mua sách là vì cô hay đọc những cuốn sách các anh trai cô mượn ở trường về nhưng họ luôn đòi lại trước khi cô kịp đọc xong. Thư viện trường cô không có những quyển sách mà anh Hyong-chol cầm về, những quyển kiểu như Bà Sa đi về phía Nam hay Tiểu sử của Shin Yun-bok. Quyển sách cô chọn trong khi mẹ đang đứng đợi ngoài hiệu sách có nhan đề Con người, quá đỗi con người. Mẹ nhìn chằm chằm vào quyển sách cô vừa chọn mua, quyển sách đầu tiên mẹ trả tiền mà không phải là sách giáo khoa.

“Con cần quyển sách này à?”

Cô gật đầu ngay, lòng đầy lo sợ mẹ sẽ đổi ý. Thực ra cô cũng không biết đó là quyển sách gì. Tên tác giả cuốn sách là Nietzsche nhưng cô không biết người đó là ai. Cô chọn quyển sách này chỉ vì thấy nhan đề Con người, quá đỗi con người thật kêu. Mẹ giúi tiền sách vào tay cô, không bớt một đồng. Trên chuyến xe buýt về nhà, với cuốn sách trong vòng tay thay vì con cún, cô nhìn ra ngoài cửa sổ. Cô thấy một bà cụ lưng còng đang mỏi mắt dõi theo dòng người qua lại hầu mong bán được một đấu gạo nếp.

Trong lúc hai mẹ con cô đi trên con đường núi mà từ đó cô có thể nhìn thấy quê ngoại ngày xưa, mẹ kể với cô rằng ông ngoại cô đã bôn ba khắp nơi đi đào vàng và khai thác than, đến năm mẹ lên ba ông ngoại mới về nhà. Ông vào làm việc tại công trường xây dựng ga tàu hỏa mới rồi chết trong một tai nạn. Khi người trong làng đến nhà thông báo sự việc cho bà ngoại cô, nhìn thấy mẹ vẫn đang tung tăng chạy nhảy ngoài sân họ bèn bảo, Bố chết rồi mà vẫn cứ cười đùa được, đúng là đứa trẻ dại ngơ dại nghếch.

“Mẹ nhớ chuyện đó từ khi mới lên ba ấy ạ?”

“Nhớ chứ.”

Mẹ nói rằng đôi khi mẹ thấy giận bà ngoại. “Mẹ hiểu rõ rằng với hoàn cảnh góa bụa thì bà cũng đã cố hết sức rồi, nhưng dù sao bà vẫn nên cho mẹ đi học chứ. Anh trai mẹ được đi học ở trường Nhật Bản, chị gái mẹ cũng vậy, thế thì tại sao chỉ có một mình mẹ phải ở nhà? Mẹ sống trong tăm tối, không một chút ánh sáng, cả cuộc đời mẹ đen tối...”

Cuối cùng mẹ cũng đồng ý lên Seoul với cô nếu cô hứa sẽ không nói cho anh Hyong-chol biết. Thậm chí đến tận khi rời nhà với cô, mẹ vẫn không ngừng bắt cô hứa không kể lể với anh Hyong-chol.

Khi đưa mẹ hết từ bệnh viện này tới bệnh viện khác để tìm nguyên nhân căn bệnh đau đầu của mẹ, một bác sĩ đã nói một điều khiến cô kinh ngạc. Bác sĩ nói rằng mẹ cô đã bị tai biến mạch máu não một lần cách đây khá lâu. Tai biến ư? Cô bảo là mẹ chưa bao giờ bị như thế. Bác sĩ chỉ vào một điểm trong tấm phim chụp não của mẹ mà nói đó là vết tích của lần tai biến. Cô thắc mắc, “Làm sao mẹ tôi bị tai biến mà thậm chí bà chẳng hề biết gì?”

Vị bác sĩ nói, “Hẳn là mẹ cô có biết chứ. Khi máu bị ứ đọng lại ở đó, bà ấy chắc chắn cảm thấy rất đau. Chính vì thế lúc nào bà ấy cũng đau đớn. Cơ thể bà ấy luôn đau.”

“Luôn luôn đau đớn là sao? Sức khỏe của mẹ tôi vẫn tốt mà.”

“Tôi không nghĩ vậy.”

Cô cảm thấy như thể một cây kim được giấu kín trong ví bỗng nhảy ra đâm vào tay cô. Bác sĩ dẫn lưu điểm máu tích tụ trong não mẹ nhưng cơn đau đầu của mẹ vẫn không thuyên giảm. Mới phút trước còn đang trò chuyện, phút sau mẹ đã cẩn thận ôm chặt lấy đầu như thể đó là một chiếc bình thủy tinh sắp vỡ rồi đi về nằm xuống tấm phản trong nhà kho.

“Mẹ ơi, mẹ có thích ở trong bếp không?” Khi cô hỏi câu này lần đầu tiên, mẹ chẳng hiểu nổi ý cô là gì. “Hồi xưa mẹ có thích ở dưới bếp không? Mẹ có thích nấu nướng không?”

Mẹ nhìn cô chằm chằm. “Mẹ không nghĩ tới chuyện thích hay không thích ở dưới bếp. Mẹ nấu nướng vì đó là việc mẹ phải làm. Mẹ phải ở dưới bếp để nấu cơm cho các con ăn rồi còn đi học. Làm sao mà ta có thể chỉ làm những việc mình thích được chứ? Có nhiều việc ta phải làm cho dù ta thích hay không.” Mẹ nhìn cô với vẻ như muốn hỏi, Sao con lại hỏi vậy?, và lẩm bẩm, “Nếu chỉ làm những việc mình thích thì ai sẽ làm những việc mình không thích đây?”

“Thế thì, sao chứ ạ, mẹ thích hay là không?”

Mẹ đưa mắt nhìn xung quanh như đang định nói điều gì bí mật với cô, rồi cắt tiếng thì thầm, “Nhiều lần mẹ đập bể nắp chum.”

“Mẹ đã đập bể nắp chum sao?”

“Mẹ không thấy điểm kết thúc. Ít nhất là với công việc đồng áng, khi gieo hạt vào mùa xuân thì ta được thu hoạch vào mùa thu. Ở chỗ gieo hạt rau chân vịt sẽ mọc lên cây rau chân vịt, ở chỗ tra hạt ngô sẽ mọc lên cây ngô... Còn công việc bếp núc thì không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Ta ăn sáng rồi ăn trưa rồi ăn tối rồi khi trời sáng thì lại ăn sáng... Sẽ tốt hơn nhiều nếu mẹ có thể thay đổi món ăn thường xuyên, nhưng bởi vì vẫn là những thứ rau dưa trồng ngoài đồng ruộng cả nên mẹ lúc nào cũng làm đi làm lại ngần ấy món. Khi cứ làm thế hết lần này tới lần khác, sẽ có những lúc ta thấy thật sự ngán ngẩm. Mỗi lúc cảm thấy gian bếp như nhà tù, mẹ lại đi ra sân sau nhặt cái nắp chum nào sứt sẹo nhất lên rồi dùng hết sức ném bộp vào tường. Chị gái bố con không hề biết mẹ làm thế. Nếu mà biết chắc bác ấy sẽ cho rằng mẹ là người điên khi cứ đập nắp chum lung tung như vậy.”

Mẹ cô còn kể rằng vài hôm sau mẹ lại mua chiếc nắp mới để đậy cái chum lại. “Mẹ đã tiêu tiền hơi lãng phí. Khi đi mua nắp mới mẹ thấy thật phí phạm và tiếc đứt ruột, nhưng mẹ chẳng thể nào ngừng lại được. Tiếng vỡ của cái nắp chum đã trở thành liều thuốc cho mẹ. Mẹ cảm thấy như được tự do.” Bỗng nhiên mẹ đặt ngón trỏ lên môi rồi suỵt nhẹ như thể sợ ai nghe thấy. “Đây là lần đầu tiên mẹ kể chuyện này ra đấy!” Nét tinh nghịch và nụ cười bí ẩn thoáng hiện trên khuôn mặt mẹ. “Khi nào không thích nấu nướng thì con nên thử ném một cái đĩa. Dù có nghĩ, Ôi sao mà tiếc thế, con sẽ thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Nhưng vì chưa có gia đình nên dù sao con cũng chẳng cảm thấy như thế đâu.”

Mẹ cô chỉ ngồi thở dài. “Dù sao mẹ cũng rất mừng khi các con đều đã trưởng thành. Cho dù đã bận rộn tới mức không có thời gian để sửa lại cái khăn đội đầu nhưng khi nhìn cảnh các con ngồi quây quần bên bàn ăn uống say sưa, đũa bát va cả vào nhau trong khi ăn, mẹ cảm thấy không cần bất cứ thứ gì trên thế gian này nữa. Tất cả các con đều rất dễ nuôi. Các con ăn rất ngon lành dù mẹ chỉ nấu một nồi canh đạm bạc chỉ bí ngô với đậu, còn nếu lâu lâu mẹ hấp cá một lần thì mặt mũi đứa nào đứa nấy trông tươi tắn hẳn lên… Các con đều ăn rất khỏe nên giai đoạn các con đang phát triển nhiều khi mẹ thấy rất lo. Nếu có luộc một nồi khoai tây to để các con ăn tạm sau khi tan trường thì chắc chắn lúc mẹ về đã thấy cái nồi hết veo. Quả thật, có những thời gian gạo trong vại hôm trước hôm sau đã vơi đi trông thấy, thậm chí còn có khi vại gạo hết sạch. Khi mẹ vào trong kho lấy gạo để nấu cơm tối, cái ống bơ đong gạo chạm xuống tận đáy vại, trời ơi, lúc đó lòng mẹ chùng xuống, mẹ nghĩ không biết phải lấy gì cho các con ăn vào sáng mai đây. Thế nên trong những ngày đó chuyện mẹ thích hay không thích làm bếp chẳng còn quan trọng gì nữa. Nếu được nấu một nồi cơm to và một nồi canh nhỏ thì mẹ chẳng quản mệt nhọc vì mẹ thấy vững tâm khi nghĩ đây là thức ăn nuôi lớn các con. Giờ có lẽ các con thậm chí không thể hình dung được điều đó, nhưng vào thời điểm ấy chúng ta thực sự luôn lo sợ hết lương thực. Nhà ai cũng thế cả. Việc quan trọng nhất lúc ấy là ăn để tồn tại.” Mẹ mỉm cười nói với cô rằng đó là những ngày tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời mẹ.

Cơn đau đầu đã lấy đi nụ cười trên khuôn mặt mẹ. Nó giống như con chuột đồng với những cái răng sắc nhọn không ngừng đục khoét và âm thầm gặm nhấm tinh thần của mẹ.

Người mà cô đến gặp để nhờ in tờ rơi mặc bộ quần áo vải bông đã cũ. Chỉ thoáng nhìn ông thôi người ta cũng có thể nhận ra bộ quần áo đó được may hết sức cẩn thận. Dù biết ông luôn mặc đồ vải bông đã cũ, mọi người vẫn luôn thấy ông thật cuốn hút. Nghe cô kể về tình hình của mẹ xong, ông bảo sẽ thiết kế tờ rơi dựa trên bản nháp của cô rồi in thật nhanh tại cửa hàng in của người quen. Do không có bức ảnh mới chụp nào của mẹ nên anh chị em cô đành phải dùng tấm ảnh gia đình chụp hồi mừng thọ bố, tấm ảnh mà cậu em trai của cô đã đưa lên mạng. Ông nhìn gương mặt mẹ cô trong bức ảnh rồi nói rằng mẹ cô trông rất đẹp.

Bất ngờ trước câu nói của ông, cô cũng khen bộ quần áo của ông thật đẹp.

Ông mỉm cười với câu nói của cô. “Mẹ tôi may bộ này cho tôi đấy.”

“Chẳng phải bà đã mất rồi sao?”

“Mẹ tôi may nó lúc sinh thời.”

Ông kể rằng vì bệnh dị ứng nên từ khi còn nhỏ tới giờ ông chẳng thể mặc gì khác ngoài vải bông. Nếu những loại vải khác chạm vào da, toàn thân ông sẽ mẩn ngứa và phát ban. Thế nên xưa nay ông chỉ mặc quần áo vải bông mà mẹ ông may cho. Trong ký ức của ông, người mẹ lúc nào cũng khâu vá bởi vì mọi thứ đồ của ông đều do bà may lấy, từ cái áo lót cho đến đôi tất chân.

Ông nói sau khi mẹ ông qua đời, ông mở tủ quần áo ra xem, trong đó chất đầy những bộ quần áo vải bông mà ông có thể mặc đến tận cuối đời. Bộ quần áo ông đang mặc đây là một trong số đó. Dung mạo của mẹ ông như thế nào nhỉ? Trong lòng cô cảm thấy xót xa khi nghe ông kể chuyện. Trước sự hồi tưởng về người mẹ kính yêu của ông, cô hỏi, “Ông có nghĩ rằng mẹ ông hạnh phúc không?”

“Mẹ tôi không giống với phụ nữ ngày nay.” Lời nói của ông rất lịch sự nhưng vẻ mặt ông nói lên rằng cô đã xúc phạm mẹ ông.

Chương 2: Xin lỗi con, Hyong-chol (1)

Nhận tờ rơi Hyong-chol vừa đưa cho, người phụ nữ dừng bước một lát lặng lẽ nhìn tấm ảnh mẹ anh. Ngay dưới chân tháp đồng hồ ở ga Seoul nơi mẹ thường đứng đợi anh.

Ngay sau khi anh tìm được một căn phòng trên thành phố, mẹ đã lên thăm anh. Lúc đến ga Seoul, bộ dạng của mẹ anh chẳng khác gì một người đi sơ tán chiến tranh. Mẹ bước lên bậc thềm nhà ga với bao nhiêu gói bọc đội trên đầu, vác trên vai, cầm trên tay, với vô khối thứ không xách vào đâu được nữa đành buộc lại quanh hông. Thật kỳ lạ khi mẹ vẫn có thể bước đi với ngần ấy thứ trên người. Nếu làm được, chắc mẹ còn treo cả những quả cà tím và bí ngô vào chân khi lên thăm anh. Cái túi của mẹ anh căng phồng lên với nào là ớt tươi, nào là hạt dẻ, hoặc tỏi bóc sẵn bọc trong giấy báo. Mỗi khi đi đón mẹ, anh lại không tin nổi vào mắt mình khi thấy những bó to bó nhỏ chất thành đống xung quanh mẹ, thật ngạc nhiên vì một mình mẹ mà có thể mang được nhiều thứ đến vậy. Đứng giữa đống đồ đạc, mẹ ngó nghiêng nhìn quanh, gò má đỏ bừng lên, ngóng đợi anh đến đón.

Người phụ nữ ngập ngừng tiến về phía anh, chỉ vào ảnh mẹ trong tờ rơi mà nói, “Hình như tôi đã nhìn thấy bà ấy trước ủy ban phường số Hai khu Yongsan.” Trong tờ rơi do cô em anh làm, mẹ anh mặc hanbok màu xanh nhạt, đang cười rạng rỡ. Người phụ nữ nói tiếp, “Lúc đó bà ấy không mặc bộ hanbok này nhưng đôi mắt thì giống hệt, tôi còn nhớ đôi mắt ấy vì trông nó rất thật thà, giống như đôi mắt của con bê vậy.” Người phụ nữ nhìn lại một lần nữa đôi mắt của mẹ anh trong bức ảnh được in trên tờ rơi và nói thêm, “Bà ấy bị thương ở mu bàn chân. Bà ấy đi đôi dép lê màu xanh, một bên dép cứa vào bàn chân chỗ gần ngón cái sâu đến nỗi một miếng thịt long ra tạo thành vết rách sâu hoắm, có lẽ vì bà ấy đã đi bộ quá xa. Ruồi muỗi bu đầy quanh vết thương đang rỉ mủ, chắc là cảm thấy khó chịu nên bà ấy cứ đưa tay phe phẩy đuổi chúng đi. Mặc dù trông có vẻ đau lắm, nhưng bà ấy cứ ngó nghiêng nhìn vào ủy ban phường như thể chẳng đau đớn gì. Chuyện này là từ một tuần trước rồi.”

Một tuần trước sao?

Chẳng biết phải làm gì với những điều người phụ nữ kia nói - rằng bà ấy nghĩ là đã nhìn thấy mẹ anh trước ủy ban phường một tuần trước, chứ thậm chí không phải sáng nay, rằng đôi mắt mẹ trong bức ảnh trên tờ rơi gợi cho bà ấy nghĩ đến đôi mắt của người phụ nữ bà ấy gặp - anh vẫn tiếp tục phát tờ rơi ngay cả khi bà ấy đã đi rồi. Mọi thành viên trong nhà đều được huy động đi phân phát và dán tờ rơi ở khắp nơi, từ ga Seoul đến Namyong-dong, từ các nhà hàng, cửa hàng quần áo, hiệu sách và quán café Internet. Khi có những tờ rơi bị bóc ra vì đã dán vào những chỗ không được phép, họ lại tới dán vào đúng chỗ đó. Mà cũng không chỉ dán ở loanh quanh khu vực ấy. Mọi người trong gia đình còn đến tận Nam Dea Moon, Chong Lim Dong, thậm chí cả Seo Dea Moon để phân phát và dán tờ rơi. Họ chẳng nhận được lấy một cuộc điện thoại từ mẩu quảng cáo họ đã đăng trên báo, nhưng có một số người gọi điện đến sau khi xem tờ rơi. Có lần nghe mách rằng có người giống mẹ anh ở một nhà hàng nọ, họ vội vàng lao đến đó xem, nhưng người đó không phải là mẹ mà chỉ là một phụ nữ trạc tuổi mẹ đang làm việc cho nhà hàng đó. Một lần, có người gọi đến bảo với anh rằng ông ta đã mời mẹ vào nhà ông ta rồi đọc địa chỉ nhà ông ta một cách rõ ràng, thế là lòng đầy khấp khởi mấy anh chị em vội vã tới đó, nhưng khi đến nơi mới hay địa chỉ đó không tồn tại. Thậm chí còn có người gọi đến bảo rằng anh ta sẽ tìm mẹ cho họ nếu họ đưa trước năm triệu uôn tiền thưởng cho anh ta. Nhưng rồi sau hai tuần những cuộc gọi cũng thưa thớt dần. Gia đình anh, vốn lúc trước tất tả chạy ngược chạy xuôi ngập tràn hy vọng, giờ đây thường thấy nhau ngồi phệt trước tháp đồng hồ ở ga Seoul, não nề tuyệt vọng. Khi có người vò nát tờ rơi vứt xuống đất ngay sau khi nhận nó, chính em gái anh, một nhà văn, đã nhặt nó lên, vuốt lại phẳng phiu và phát cho người khác.

Cô em anh vừa đi vào ga Seoul với một tập tờ rơi trên tay liền chạy lại đứng bên cạnh anh. Ánh mắt mệt mỏi của cô liếc nhìn đôi mắt anh. Anh kể với cô về những lời của người phụ nữ nọ, rồi hỏi cô, “Chúng ta có nên đến tìm kiếm quanh ủy ban phường số Hai khu Yong San không?” Cô em với vẻ ủ rũ trả lời ngắn gọn, “Sao mẹ lại đến đó chứ? Chúng ta có thể qua đó sau.” Rồi cô đưa tờ rơi ra trước mặt những người đang hối hả đi ngang qua mà nói to, “Đây là mẹ chúng tôi, xin mọi người đừng vứt đi, làm ơn hãy cầm lấy tờ rơi xem dù chỉ một lần thôi.” Không ai nhận ra cô em anh mặc dù thỉnh thoảng, khi xuất bản một cuốn sách mới, hình của cô lại xuất hiện trên mục văn hóa của tờ nhật báo. Nhưng xem ra, vừa nói thật to lên vừa đưa tờ rơi ra như cô em gái có vẻ mang lại hiệu quả hơn là chỉ phát tờ rơi như anh. Không còn ai quăng tờ rơi đi ngay khi quay bước như trước đây nữa. Chẳng có nhiều nơi mẹ có thể đến ngoài nhà của mấy anh em. Điều này thực sự là căn nguyên đau khổ của anh và cả gia đình. Nếu có nơi nào có thể mẹ sẽ tìm đến thì mấy anh em sẽ tập trung tìm kiếm mẹ xung quanh đó, nhưng vì chẳng có nơi nào nên họ đành phải lùng sục khắp mọi nơi trong thành phố này. Khi cô em hỏi, “Sao mẹ lại đến đó chứ?” anh đã không nghĩ ra ngay rằng ủy ban phường số Hai khu Yong San chính là nơi đầu tiên anh làm việc khi đặt chân lên thành phố. Bởi vì đã ba mươi năm trôi qua kể từ ngày đó.

Gió mùa này đã trở lạnh, thế nhưng những giọt mồ hôi vẫn lấm tấm trên mặt anh. Anh đã ngoài năm mươi tuổi, là giám đốc tiếp thị của một công ty chuyên xây dựng nhà chung cư. Mặc dù hôm nay, thứ Bảy, là ngày nghỉ, nhưng nếu mẹ không bị lạc thì giờ này chắc anh đang có mặt tại ngôi nhà mẫu ở Song Do. Công ty anh đang tìm kiếm khách hàng đợt cuối cho các căn hộ của một tòa phức hợp rộng lớn sắp sửa hoàn thành ở đó. Anh đã làm việc không kể ngày đêm để bán được hết toàn bộ căn hộ trong tòa nhà ấy. Suốt cả mùa xuân, anh phụ trách chiến dịch quảng cáo trong đó phải chọn một bà nội trợ bình thường làm người mẫu thay vì tìm kiếm những siêu mẫu nổi tiếng như trước đây. Anh chẳng nhớ nổi lần cuối cùng mình về nhà trước nửa đêm là khi nào, bởi vì anh quá bận bịu với việc xây căn nhà mẫu, rồi còn phải đón tiếp và ăn tối với cánh phóng viên. Vào Chủ nhật, anh thường phải hộ tống Tổng giám đốc và các cán bộ cấp cao khác tới chơi golf ở Sokcho hoặc Hoengsong.

“Anh ơi! Mẹ bị lạc rồi!” Giọng nói bàng hoàng của cậu em trai truyền đến anh trong một buổi chiều mùa hè oi bức đã cắt đứt chuỗi ngày thông thường đó của anh, làm vỡ tan cuộc sống ấy như thể anh đã giẫm lên lớp băng mỏng mảnh. Ngay cả khi nghe kể rằng bố mẹ lên tàu điện đi tới nhà anh, nhưng lúc đoàn tàu khởi hành thì chỉ có một mình bố lên được tàu, còn mẹ một mình rớt lại ở sân ga và sau đó không tìm thấy mẹ nữa, anh vẫn không thể nghĩ được rằng chuyện đó lại dẫn đến việc mẹ anh mất tích. Khi cậu em trai nói rằng cậu ấy đi báo cho cảnh sát, anh chỉ nghĩ không biết làm vậy có hơi quá đà không. Phải một tuần sau, anh mới đăng quảng cáo trên báo và liên hệ với phòng cấp cứu của các bệnh viện. Hằng đêm, mọi người chia nhau ra các hướng tìm đến các trung tâm bảo trợ dành cho người vô gia cư, nhưng đều không kết quả gì. Mẹ anh, rớt lại ở ga tàu điện ngầm Seoul, đã biến mất như thể một giấc mơ. Mẹ không để lại dấu vết gì, đến mức anh còn muốn hỏi bố liệu mẹ có lên Seoul cùng bố thật không. Mười ngày trôi qua kể từ khi mẹ mất tích, rồi nửa tháng, và khi sắp hết một tháng, anh và cả gia đình vẫn dò dẫm khắp nơi trong nỗi hoảng loạn cứ như thể tất cả mọi người đều bị tổn thương ở vùng não.

Anh đưa chỗ tờ rơi cho cô em gái. “Anh phải đi kiểm tra mới được.”

“Anh đi Yong San à?”

“Ừ.”

“Anh có linh cảm gì à?”

“Đó là nơi đầu tiên anh sống khi lên Seoul.” Anh dặn cô em kiểm tra điện thoại thường xuyên, nếu phát hiện được gì anh sẽ gọi cho cô ấy ngay. Lúc này những lời nói ấy của anh không còn cần thiết nữa. Cô em anh trước đây thường chẳng khi nào nghe điện thoại, nhưng giờ luôn mở máy trước tiếng chuông đổ lần thứ ba. Anh rảo bước đến bãi đậu taxi. Mẹ rất lo cho cô em Chi-hon của anh, quá ba lăm tuổi rồi mà vẫn chưa xây dựng gia đình. Có khi mới sáng sớm mẹ đã gọi điện thoại cho anh và nói với giọng buồn bã, “Hyong-chol à! Con thử sang chỗ Chi-hon xem nó thế nào, vừa nãy mẹ gọi điện nhưng không thấy nó nghe máy, mẹ thấy lo lắm. Nó không nghe máy, cũng không gọi điện... Đã một tháng nay mẹ không nghe thấy giọng của nó rồi.” Khi anh nói với mẹ rằng Chi-hon chắc là đang tự giam mình trong nhà viết sách, hoặc là cô phải đi đâu đó, thể nào mẹ cũng nài nỉ anh đến căn hộ của cô em gái xem tình hình thế nào. Mẹ nói với anh rằng, “Em nó sống một mình, có thể nó bị đau ốm nằm liệt giường hay bị ngã trong nhà tắm rồi không dậy được nữa…” Nghe mẹ liệt kê ra hàng loạt những điều không may có thể xảy ra với người sống một mình, anh sốt ruột nghĩ biết đâu chừng một trong số đó thực sự đã xảy ra với cô em gái cũng nên. Nhận sự ủy thác của mẹ, trước khi đi làm hoặc trong giờ nghỉ trưa, anh tạt qua nhà cô em gái và thấy một đống báo chí để trước cửa, bằng chứng cho thấy cô không có nhà. Anh thu dọn đống báo chí bỏ vào thùng rác rồi quay về. Khi không thấy những thứ như báo chí hay sữa để ngoài cửa, anh sẽ ấn chuông liên tục vì biết chắc cô em đang ở trong nhà, và cô sẽ ló khuôn mặt tóc tai bù xù ra hỏi giọng cộc lốc, “Sao thế?” Một lần, đúng lúc anh đang đứng bấm chuông ngoài cửa thì gặp một thanh niên có vẻ như cũng đang đến tìm Chi-hon. “Chào anh,” người thanh niên cất giọng bối rối. Anh chưa kịp hỏi xem cậu ta là ai, cậu ta đã nói, “Không cần hỏi em cũng biết anh là ai vì trông anh rất giống Chi-hon.” Cậu ta nói cậu ta qua đây vì tự nhiên cậu ta không thể liên lạc được với cô. Khi anh nói với mẹ rằng có vẻ như cô em đã đi du lịch hoặc cô đang ở nhà và vẫn ổn, mẹ anh sẽ thở dài nói, “Nó cứ đi như thế, nếu có chết chắc chúng ta cũng không biết.” Rồi mẹ anh còn hỏi thêm, “Mà thật ra nó làm cái gì vậy nhỉ?” Lý do cô em anh cứ nửa tháng, thậm chí có khi cả tháng không có tin tức gì là vì cô ấy bận viết tiểu thuyết. Khi anh hỏi, “Em có cần phải làm như vậy mỗi khi em viết không?” cô sẽ lẩm bẩm một mình, “Từ lần sau, em sẽ liên lạc với mẹ.” Là cô nói thế thôi. Mặc dù mẹ lo lắng như thế, sự gián đoạn trong liên lạc giữa Chi-hon với mẹ cũng như với cả gia đình vẫn tiếp tục tái diễn. Sau mấy lần anh bỏ qua yêu cầu đến kiểm tra tình hình Chi-hon của mẹ, mẹ thôi không nhờ anh làm thế nữa. Chỉ có duy nhất một lần mẹ nhắc đến chuyện đó, “Mẹ đoán là con không có thời gian để nghe lời mẹ.” Bởi vì những lần bất ngờ mất tăm mất dạng của cô em vẫn tiếp diễn, anh nghĩ phải là một ai đó khác trong gia đình không nghe lời mẹ mới đúng. Sau khi mẹ bị lạc, em gái anh cứ lẩm bẩm với anh, “Có lẽ em đang bị trừng phạt...”

Giao thông vô cùng đông đúc giữa ga Seoul và Đại học Nữ sinh Sukmyong. Anh nhìn ra ngoài cửa xe, cẩn thận quan sát từng người lướt ngang qua. Trong đám đông đó, biết đâu lại có mẹ anh.

“Quý khách! Có phải quý khách định đi tới ủy ban phường số Hai khu Yong San không ạ?” người tài xế hỏi anh, rẽ sang trước trường đại học rồi chạy về phía trường trung học Yong San, nhưng anh chẳng nghe thấy gì.

“Quý khách?”

“Vâng?”

“Quý khách đến ủy ban phường số Hai khu Yong San phải không ạ?”

“Vâng.”

Hồi hai mươi tuổi ngày nào anh cũng bước đi trên con đường này thế mà khung cảnh bên ngoài cửa xe lúc này mới lạ lẫm làm sao. Anh tự hỏi không biết xe đi có đúng đường không. Thực ra sẽ là phi lý hơn nhiều nếu trong ba mươi năm mà cảnh sắc chẳng có gì thay đổi.

“Vì hôm nay là thứ Bảy nên chắc ủy ban phường không mở cửa đâu.”

“Chắc là thế.”

Người tài xế định nói thêm với anh câu gì đó nhưng anh đã lấy một tờ rơi trong túi ra đưa cho người tài xế. “Nếu trong khi lái xe mà nhìn thấy người nào như thế này, làm ơn hãy báo cho tôi nhé.”

Người tài xế nhìn thoáng qua tờ rơi. “Mẹ anh à?”

“Vâng.”

“Khổ quá...”

Mùa thu năm ngoái, dù cô em gọi điện bảo rằng dạo này mẹ hành động kỳ lạ lắm, anh đã không làm gì cả. Anh nghĩ rằng ở tuổi của mẹ, đau ốm cũng là chuyện thường tình. Cô em rầu rĩ nói với anh rằng, hình như vì hay đau đầu nên mẹ suy nghĩ không còn sáng rõ, nhưng khi anh gọi điện về nhà, mẹ anh cất giọng ấm áp, “Hyong-chol à con!” Khi anh hỏi, “Có chuyện gì xảy ra à mẹ?” Mẹ cười lớn và nói, “Mẹ đang mong có chuyện gì lắm đây! Đừng lo cho bố mẹ. Có chuyện gì xảy ra với hai ông bà già này được chứ? Các con hãy chăm sóc cho bản thân.”

“Mẹ lên Seoul một chuyến đi.”

“Ừ, thôi được rồi...” mẹ anh ậm ừ rồi không nói gì nữa.

Bực mình trước sự thờ ơ của anh, cô em gái anh đến công ty anh và giúi vào tay anh tấm phim chụp não của mẹ. Cô em kể lại lời bác sĩ rằng mẹ anh đã bị tai biến mạch máu não một lần mà bản thân mẹ không hay biết. Thấy anh có vẻ điềm nhiên, cô em quát to lên, “Anh cả! Có phải là anh Yun Hyong-chol không?” và nhìn chằm chằm vào mắt anh.

“Mẹ bảo không có chuyện gì xảy ra, thế tất cả những điều này là gì vậy?”

“Anh tin những lời như vậy của mẹ à? Mẹ luôn nói như thế mà. Đó là câu cửa miệng của mẹ. Anh biết đúng là thế mà. Anh thừa biết mẹ chỉ nói thế vì mẹ cảm thấy có lỗi khi trở thành gánh nặng cho anh.”

“Tại sao mẹ lại cảm thấy có lỗi với anh?”

“Cái đó làm sao em biết được? Sao anh lại khiến mẹ luôn thấy có lỗi?”

“Anh đã làm gì chứ?”

“Mẹ đã nói câu đó từ rất lâu rồi. Anh biết rõ thế còn gì. Để em hỏi anh, tại làm sao mà mẹ lại luôn cảm thấy có lỗi mỗi khi phải làm phiền anh chuyện gì đó?”

Ba mươi năm trước, sau khi vượt qua kỳ thi công chức bậc năm, anh nhận được công việc đầu tiên tại ủy ban phường số Hai ở khu Yong San. Khi anh học xong trung học và không đỗ được vào đại học, mẹ đã không tin nổi. Đó cũng là phản ứng tự nhiên đối với mẹ thôi. Từ khi học tiểu học cho đến trung học, anh chưa một lần đánh mất ngôi vị số một trong lớp. Trước khi trượt đại học, anh luôn đứng đầu trong bất cứ kỳ thi nào anh tham dự. Năm học lớp sáu, anh không phải nộp học phí vì là học sinh thủ khoa trong kỳ thi vào trung học. Trong suốt ba năm sau đó cũng vậy, anh không phải nộp một đồng học phí vì luôn là học sinh xuất sắc nhất. Tốt nghiệp trung học, anh được khen thưởng là học sinh tiêu biểu của lớp. “Chao ôi, giá như thằng Hyong-chol nhà chúng tôi phải nộp học phí dù chỉ một lần thôi nhỉ,” mẹ thường tự hào khoe khéo như vậy. Mẹ chẳng tài nào hiểu nổi vì sao một người luôn là số một trong suốt thời trung học lại không vượt qua được kỳ thi đại học. Khi nghe tin không những anh không đỗ đầu mà còn trượt đại học, mẹ đã thắc mắc trong nỗi hoang mang, “Con mà không đậu thì còn ai đậu được chứ?” Anh đã lên kế hoạch học cật lực ở đại học để duy trì vị trí số một trong lớp của mình. Đó thật ra không phải là một kế hoạch mà là lựa chọn duy nhất của anh. Con đường duy nhất để anh có thể bước chân vào đại học chính là học bổng. Nhưng vì chẳng đậu, anh đành phải tìm con đường khác. Anh chẳng có cái ý nghĩ xa xỉ là thi lại vào năm sau. Và chẳng bao lâu anh đã tìm ra con đường phải đi cho chính bản thân mình. Anh tham dự hai vòng thi công chức và đỗ cả hai kỳ thi đó. Anh xa nhà, chọn công việc đầu tiên anh nhận được. Mấy tháng sau, anh được biết có một trường đại học luật ở Seoul học vào buổi tối nên quyết định đăng ký vào đó. Anh nhận ra rằng anh cần bằng tốt nghiệp trung học. Nhưng nếu gửi thư về nhà bảo bố mẹ sao bằng tốt nghiệp trung học để gửi qua đường bưu điện từ quê lên thì chắc chắn sẽ quá thời hạn nộp hồ sơ. Vì vậy, anh đã viết thư cho bố dặn ông ra bến xe buýt nhờ ai đó lên Seoul mang hộ tấm bằng tốt nghiệp cho anh. Anh còn dặn bố sau khi nhờ được họ thì ra bưu điện gọi điện đến ủy ban phường cho anh. Nếu bố thông báo cho anh biết chính xác thời gian chuyến xe đến bến, anh sẽ đi ra bến xe buýt chờ để lấy tấm bằng. Nhưng anh đợi cả ngày hôm ấy mà không có cuộc điện thoại nào gọi đến. Nhà anh thời đó chưa có điện thoại nên anh thậm chí không thể gọi về xem có chuyện gì xảy ra. Nửa đêm hôm đó, anh đang băn khoăn không biết phải làm gì với bộ hồ sơ hết hạn nộp vào ngày mai thì có ai đó đập rầm rầm vào cánh cửa ủy ban phường. Hồi đó anh ở trong ủy ban phường. Nhân viên ủy ban phải thay phiên nhau trực đêm, nhưng vì anh không có chỗ ở nên người ta quyết định cho anh sống luôn trong phòng trực. Thành ra ngày nào anh cũng trực đêm. Nghe thấy tiếng đập cửa thình thình tưởng như có thể khiến cánh cửa ủy ban phường vỡ tan, anh chạy ra ngoài xem thì thấy có một thanh niên đang đứng trong bóng tối.

“Người này có phải mẹ anh không?”

Mẹ anh đang đứng sau người thanh niên, người run bần bật vì lạnh. Anh chưa kịp nói gì, mẹ anh đã cất tiếng, “Hyong-chol à! Mẹ đây! Là mẹ đây!” Người thanh niên liếc nhìn đồng hồ và nói, “Chỉ còn bảy phút nữa là đến giờ giới nghiêm,” rồi quay lại chào mẹ anh và lao vút vào bóng đêm để tránh giờ giới nghiêm chính phủ quy định.

Bố anh đang đi vắng. Khi cô em anh đọc thư xong, mẹ cứ đứng ngồi không yên, rồi tìm đến trường lấy tấm bằng tốt nghiệp trung học của anh về và ra bắt tàu hỏa lên Seoul. Đây là lần đầu tiên trong đời mẹ anh đi tàu. Người thanh niên đó nhìn thấy mẹ ở ga Seoul đang hỏi thăm mọi người đường đến khu Yong San. Nghe mẹ anh nói rằng ngay trong đêm hôm nay phải chuyển cho người con trai một thứ gì đó rất quan trọng, người thanh niên cảm thương nên đã đưa mẹ đến ủy ban phường. Mẹ đi đôi dép lê màu xanh giữa mùa đông lạnh giá. Trong vụ thu hoạch mùa thu, mẹ bị thương khi xoẹt cái liềm vào ngón chân cái, vì vết thương đến giờ vẫn chưa lành hẳn nên đôi dép lê là thứ duy nhất phù hợp với chân mẹ lúc này. Mẹ cởi đôi dép lê để ở trước cửa phòng trực rồi bước vào trong và nói, “Mẹ không biết là có lỡ việc của con hay không nữa,” và đưa tấm bằng tốt nghiệp trung học ra cho anh. Bàn tay mẹ anh đã lạnh cóng. Anh nắm lấy bàn tay đã lạnh như băng của mẹ. Anh đã hứa với bản thân rằng, nhất định mình sẽ làm cho đôi bàn tay này, cho người phụ nữ này được hạnh phúc. Nhưng miệng anh lại khẽ lầm bầm trách mẹ sao lại đi theo người lạ chỉ vì anh ta bảo mẹ đi theo. Mẹ rầy la, “Sao con có thể sống nổi mà không tin con người chứ? Trên thế gian này chắc chắn người tốt nhiều hơn kẻ xấu rất nhiều. Đó là đạo lý.” Rồi mẹ nở nụ cười lạc quan quen thuộc của mình.

Anh đứng trước ủy ban phường cửa đóng im ỉm và đưa mắt nhìn khắp tòa nhà. Anh nghĩ chắc mẹ không thể đến đây. Vì nếu mẹ biết cách đến đây, chắc chắn mẹ đã tìm được nhà một trong mấy đứa con. Người phụ nữ nói đã nhìn thấy mẹ anh ở đây nhớ ra mẹ là nhờ đôi mắt. Bà ấy nói mẹ anh đi đôi dép lê màu xanh. Đôi dép lê màu xanh. Giờ thì anh nhớ ra rồi, người mẹ mất tích của anh đi đôi xăng đan đế thấp màu be. Bố anh nói rằng mẹ anh không đi đôi dép lê màu xanh mà đi đôi xăng đan đế thấp màu be. Trong khi đó người phụ nữ bảo mẹ anh mang đôi dép lê mà đi xa tới mức ngón chân cái bị thương sâu hoắm kia lại khẳng định rõ ràng là đôi dép màu xanh. Anh nhìn vào trong ủy ban phường một lát rồi đi lang thang xuống những con đường dẫn đến nhà thờ Eunsong và trường Trung học Nữ sinh Bosung, nhìn ngắm vòng quanh.

Căn phòng trực đêm ấy có còn trong ủy ban phường không nhỉ?

Căn phòng trực đó là nơi mà chừng ấy năm về trước anh đắp chung chăn ngủ bên cạnh người mẹ đã vội vội vàng vàng bắt chuyến tàu hỏa lên Seoul để mang tấm bằng tốt nghiệp trung học cho cậu con trai hai mươi tuổi của mình. Đó chắc hẳn là lần cuối cùng anh ngủ bên cạnh mẹ như thế. Cơn gió lạnh ào ạt lùa vào phòng qua bức tường sát đường phố. Anh nằm sát tường nhưng mẹ nói, “Nằm sát tường mẹ ngủ ngon hơn,” rồi đổi chỗ cho anh. “Gió lắm mẹ ạ,” anh bảo, rồi dậy xếp cặp và đống sách vở nép vào tường để chắn gió. Anh còn chất quần áo mặc hôm qua vào bên tường. “Được rồi con,” mẹ bảo, giữ tay anh lại. “Ngủ thôi, sáng mai con còn phải làm việc nữa mà.”

“Lần đầu tiên lên Seoul mẹ thấy thế nào?” anh hỏi mẹ, ngước nhìn lên trần nhà, nằm bên cạnh mẹ.

“Không có gì đặc biệt,” mẹ trả lời rồi bật cười. “Con là đứa con đầu tiên của mẹ. Đây không phải là việc duy nhất con khiến mẹ được làm lần đầu tiên. Tất cả những điều con làm đều là một thế giới mới đầy mới mẻ với mẹ. Con đã khiến mẹ được làm mọi việc lần đầu tiên. Con là đứa con đầu tiên làm bụng mẹ căng tròn lên, cũng là đứa con đầu tiên mẹ cho bú. Lúc sinh con ra, mẹ cũng trạc tuổi con bây giờ. Khi mẹ nhìn thấy khuôn mặt đỏ hỏn đẫm mồ hôi với đôi mắt con nhắm tịt của con, lần đầu tiên... người ta thường nói rằng khi có đứa con đầu tiên họ thấy vừa ngạc nhiên vừa hạnh phúc, nhưng mẹ không nghĩ thế, mẹ lại thấy buồn. Mình vừa mới sinh một đứa con thật sao? Mình sẽ phải làm gì đây? Mẹ thấy lo sợ đến mức ban đầu mẹ thậm chí không dám chạm vào những ngón tay nhỏ xíu cuộn lại của con. Con cứ nắm chặt mấy ngón tay nhỏ nhắn ấy lại thành nắm đấm. Nếu mẹ mở nắm đấm ấy ra từng ngón từng ngón một, con sẽ mỉm cười... Chúng nhỏ bé đến nỗi mẹ nghĩ rằng nếu cứ nắm lấy chúng thì chúng có thể sẽ biến mất. Bởi vì khi đó mẹ chưa hề có kinh nghiệm nuôi con. Mẹ lấy chồng năm mười bảy tuổi nhưng đến tận năm mười chín tuổi mới mang bầu, suốt thời gian đó bà bác cứ mỉa mai là có lẽ mẹ không thể có con, thế nên khi biết đang mang thai con thì điều đầu tiên mẹ nghĩ là, Giờ mình không phải nghe bà bác nói thế nữa rồi, đó là điều khiến mẹ vui sướng nhất. Về sau, mẹ rất vui khi thấy ngón tay ngón chân của con dài ra từng ngày. Những khi mệt mỏi, mẹ thường vào trong buồng để ngắm nhìn những ngón tay ngón chân nhỏ nhắn của con, xòe từng ngón tay ra, sờ sờ nắn nắn ngón chân. Khi làm như thế, mẹ cảm thấy cơn mệt mỏi trong người tan biến hết. Mẹ còn nhớ, lần đầu tiên khi đi đôi dép vào chân con, mẹ đã rất phấn khích. Khi con chập chững bước về phía mẹ, mẹ đã cười sung sướng mãi không thôi, dù có ai chất đầy ngọc ngà châu báu trước mặt thì mẹ cũng không thể cười giòn được như lúc ấy. Mẹ cảm thấy như thế nào khi đưa con đến trường nhỉ? Khi gài biển tên cùng chiếc khăn tay vào ngực con, mẹ thấy mình đã trưởng thành lên bao nhiêu. Không hạnh phúc nào sánh bằng khi được nhìn bắp chân con ngày càng chắc nịch. Ngày nào mẹ cũng hát, Mau lớn lớn mau con của mẹ, hãy vui chơi thật vui vẻ nhé! Rồi một ngày con sẽ cao lớn hơn mẹ.”

Đọc tiếp: Hãy chăm sóc mẹ - Kỳ 3
Home » Truyện » Tiếu thuyết » Hãy chăm sóc mẹ
↑ Trên cùng
Trang chủ
Copyright © Thich123.net
Liên kết © Uhm123.net - HIM18.COM
Insane