Ring ring

Các bạn truy cập vào HIM18.COM để đọc truyện MỚI nha. Mong các bạn ủng hộ website mới này!

Ma câm: Ma Khóc Dưới Hồ Tiên Đôn – phần 10

Ông chủ Triệu nói, nếu không có sự giúp đỡ của dân đào trộm mộ chuyên nghiệp thì khó hoàn thành được việc lớn, lại cần phải ra tay trước Đồ Hắc Hổ, thời gian rất gấp rút, không còn kịp để tìm người mới, có ý nhờ hội Thôi lão đạo giúp cho một tay, sự việc thành công sẽ hậu tạ.

Thôi lão đạo vừa rồi mới thao thao bất tuyệt, nào là tấm lòng trung nghĩa, nào là hiệp sỹ hào kiệt, thế nên việc lớn vì dân vì nước này không làm sao được? Lão đạo quay sang bàn bạc với Dương Phương và Mạnh Bôn, nói chung chỉ cần là việc làm chống lại Đồ Hắc Hổ thì họ đều đồng tình ủng hộ, huống hồ còn được trả tiền. Hơn nữa tìm một bức tượng nghìn tay nghìn mắt thì có gì là to tát đâu, chỉ cần một mình Dương Phương đi là được, Thôi lão đạo chân cẳng không nhanh nhẹn, Mạnh Bôn sẽ đưa ông qua sông trước, vài bữa nữa cả hội sẽ gặp nhau tại thị trấn Cao Đài phía bắc sông Hoàng Hà.

Ông chủ Triệu thấy Dương Phương đồng ý giúp đỡ thì cảm ơn rối rít, trong lòng nghĩ: “Có được sự giúp đỡ của người này thì một người bằng mười người.”

Hai nhóm người chia tay tại quán, Dương Phương dặn dò Mạnh Bôn: “Huynh đệ, cậu chăm sóc cho đạo trưởng, tôi đi ít hôm rồi về.”

Thôi lão đạo cũng dặn dò: “Lục đệ! Ta thấy thiên thời không được tốt, có khả năng sẽ có họa lớn đấy, mọi người dọc đường phải hết sức cẩn thận. Ngoài ra, tên Đồ Hắc Hổ rất lợi hại, nếu hắn quyết tâm đi tìm tượng Phật thì không chừng sẽ chạm mặt với mọi người, cậu phải chú ý, nhớ lời của ta thà bị đánh trên mặt đất, còn hơn bị chôn dưới lòng đất. Không được hành sự bốc đồng, các cụ đã dạy rồi ‘Bá Vương tự tử ở sông Ngô Giang, Chu Du có tài nhưng mệnh đoản, bao nhiêu anh hùng hào kiệt trước khi xuất trận thì dũng mãnh nhưng cuối cùng cũng thiệt mạng vì bốc đồng’, một khi gặp phải nguy hiểm, ba mươi sáu kế kế chuồn là thượng sách, với bản lĩnh của cậu, thoát thân không phải là khó.”

6

Dương Phương nói: “Đạo trưởng cứ yên tâm, tôi ghi nhớ cả rồi.” Trong lòng lại nghĩ: “Đồ Hắc Hổ mặc dù ghê gớm nhưng đánh tay đôi với mình thì mình cũng chẳng sợ hắn.”

Tại quán ăn, Thôi lão đạo bói cho ông chủ Triệu chữ “Lộ”, cho thấy chuyến đi này không thuận lợi. Lão ta vốn bói mười quẻ có tới chín quẻ sai, chỉ toàn áp dụng mấy trò tiểu xảo giang hồ. Nhưng lăn lộn trong giang hồ lâu năm, lão cũng có khả năng nhìn việc nhìn người rất chuẩn, cảm thấy có việc lớn sắp xảy ra khiến trong lòng bất an, cứ dặn đi dặn lại Dương Phương phải hết sức cẩn thận, sau đó mới cùng Mạnh Bôn qua sông đi về hướng Bắc.

Không nói đến chuyện Thôi lão đạo qua sông thế nào. Còn bốn người bọn Dương Phương, men theo bờ sông đi theo hướng đông, thời đó loạn lạc, đi ra ngoài không dám quá lộ liễu, mọi người phải cải trang thành người dân quê, kéo theo cỗ quan tài, cũng chẳng có ngựa, vì nếu có ngựa sẽ bị quân thổ phỉ giết người cướp của chú ý tới.

Ông chủ Triệu rất quan tâm tới Dương Phương, hỏi: “Nghe đạo trưởng gọi cậu là Dương Phương? Đó là tên thật của cậu?” Dương Phương trả lời: “Tôi chỉ là đứa trẻ mồ côi, chẳng biết bố mẹ ở đâu, làm gì có tên thật. Năm đó, sư phụ tôi đã mua tôi từ nhà họ Phương ở huyện Dương nên đặt tên cho tôi là Dương Phương”. Ông chủ Triệu nói: “Hóa ra là vậy, đúng là anh hùng không cần hỏi xuất thân. Thân thế của Dương huynh đệ có phần giống đứa cháu gái của tôi”. Dương Phương hỏi lại: “Ông chủ Triệu nói vậy là sao?” Đạm Đài Minh Nguyệt nghe nhắc tới tên mình thì vội lên tiếng: “Chú! Chú đừng nói với anh ta”. Ông chủ Triệu trả lời: “Không sao! Dương huynh đệ không phải là người ngoài”, rồi bắt đầu kể: “Đứa cháu gái này của tôi cũng là đứa bé tội nghiệp không có cha mẹ”. Dương Phương hỏi: “Đại tiểu thư cũng không có cha mẹ từ nhỏ?” Ông chủ Triệu gật đầu: “Đúng thế! Chuyện đầu đuôi thế nào đến nó cũng không rõ. Hôm nay nhân tiện tôi sẽ kể cho hai đứa nghe luôn. Chuyện là hai mươi năm trước, thời vẫn còn triều đại nhà Thanh ấy.”

Cuối thời Thanh, ông chủ Triệu vẫn chưa giàu có như bây giờ, để kiếm tiền đi học, đã mạo hiểm theo người Anh vượt biển xuống Nam Hải đầu cơ, không ngờ dọc đường gặp bão suýt chút nữa chìm tàu, cột buồm bị gió đánh đổ, chỉ còn cách lênh đênh trên biển, cho đến khi lương thực và nước đã cạn, sắp bị chết đói thì gặp bọn hải tặc, nhìn thấy bộ quần áo nhà Minh, bọn họ liền kéo thuyền vào một hòn đảo hẻo lánh, trên đảo cây cối um tùm, có một chiếc hang rất lớn, bên trong nhiều nhà cửa, trông giống như một thành trì, ông chủ Triệu bị bọn hải tặc đưa vào phía sâu trong động cùng những tù binh khác. Chỉ thấy bên trong thờ một bức tượng đất, ăn mặc trang phục cổ, đầu đội mũ giáp, đây chính là bức tượng tổ tiên của bọn hải tặc. Trong động, vàng bạc châu báu chất cao như núi, thủ lĩnh bọn hải tặc là người khảng khái, đối xử không tồi với ông chủ Triệu, cho ăn uống đàng hoàng, hỏi thăm ông về tình hình ở nhà, còn kết nghĩa anh em với ông. Một đêm, thủ lĩnh hải tặc mời ông tới một gian nhà đá cùng uống rượu hàn huyên, kể lại lai lịch của chiếc hang động mà quân hải tặc đang cư trú này. Đó là trước khi Bát kỳ thiết giáp của quân Mãn Thanh tràn vào thành, có một đội quân bại trận của nhà Minh, dưới dự thống lĩnh của một vị tổng quan đã tháo chạy ra hoang đảo ngoài biển làm hải tặc. Vị tổng quan đó biết xem phong thủy, nhìn thấy địa thế tuyệt vời của hòn đảo này có thể dùng để chặn cướp tàu của nhà Thanh. Nhưng phụ nữ không được phép ở lại trên đảo quá một năm, nếu không sẽ phá hỏng phong thủy của hòn đảo này, một khi phong thủy bị phá hỏng thì số phận hòn đảo cũng coi như chấm hết. Vì vậy lập ra quy định, những người phụ nữ cướp được về trên đảo, phải giết hết trong vòng một năm, nếu sinh ra con gái cũng phải giết hết, không được để sót, tránh vị trí hòn đảo bị tiết lộ ra ngoài, quân triều đình sẽ tới tiêu diệt đảo. Hai trăm năm sau đó, những người sinh sống trên đảo không ai dám làm trái lời dạy của tổ tiên, truyền tới đời thống lĩnh hải tặc này vẫn vậy. Năm ngoái, bọn hải tặc cướp về được một thiếu nữ có dung mạo tuyệt trần, sau đó cô gái có mang với thủ lĩnh, hai người yêu nhau thực sự, thủ lĩnh hải tặc không nỡ giết người con gái đó, một năm sau cô gái sinh được một bé gái, nếu để bị phát hiện, cả hai mẹ con sẽ bị giết. May mắn lúc đó tàu ông chủ Triệu bị bắt vào đảo. Thấy người này tác phong khác người, hẳn không chịu khuất phục người khác, liền kết nghĩa anh em, còn tặng nhiều vàng bạc, sửa sang lại con tàu của ông chủ Triệu, nhờ ông đem vợ con chạy trốn khỏi đảo. Không ngờ trong lúc chạy trốn lại bị quân hải tặc phát hiện. Đám người này và nhóm trung thành với thủ lĩnh hải tặc phát sinh mâu thuẫn kịch liệt, một trận đấu súng nổi lên, hầu như cả hai bên đều chết hết, thành trì trong động cũng bị cháy sạch, những người sống sót sau trận đấu súng cũng bị đám cháy thiêu rụi, người phụ nữ nhảy xuống biển tự tử theo chồng, chỉ còn lại đứa bé gái tròn hai tháng tuổi mà ông chủ Triệu bế trên tay. Ông ngồi thuyền chạy thoát khỏi đảo, từ đó giàu có, coi đứa bé như con đẻ của mình, chỉ biết thủ lĩnh hải tặc họ Đạm Đài, trong đêm ông bỏ chạy trăng sáng vằng vặc nên đặt tên cho đứa bé là Minh Nguyệt. Có thể nói, tính mệnh và của cải của ông đều do thủ lĩnh hải tặc ban tặng, nếu không có đứa bé này thì ông cũng không thể sống để rời khỏi hòn đảo đó. Đạm Đài Minh Nguyệt từ bé đã thích cưỡi ngựa săn bắn, có thể là di truyền từ bố. Ông chủ Triệu cũng không có cách nào mà quản được, nuông chiều hết mực, đòi trăng trên trời thì chẳng dám hái sao, chỉ còn cách mời thầy về dạy bắn cung, cưỡi ngựa, múa kiếm. Nhưng lần này là đối đầu với thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ, quá mạo hiểm. Ông nói với Dương Phương, nếu chuyến đi này ông có gì bất trắc, nhờ Dương Phương trông nom Đạm Đài Minh Nguyệt hộ ông. Vì ông linh cảm thấy điều không may, lại không thể giương mắt lên nhìn quốc bảo bị đánh cắp để đổi lấy vũ khí quân đội, đành phải đem thân liều mình vào chốn nguy hiểm.

Đạm Đài Minh Nguyệt nói: “Chú đừng nói mấy lời không may mắn đó, cháu không cần ai phải chăm lo, chú cũng sẽ không sao cả.”

Dương Phương vốn nghĩ chỉ là vớt bức tượng nghìn tay nghìn mắt dưới lòng sông lên thôi, chẳng có gì to tát, có gì mà mạo hiểm? Vì vậy cũng khuyên ông chủ Triệu không nên quá lo lắng, Đồ Hắc Hổ chỉ là quân phiệt, mộ tổ của hắn thì Dương Phương tôi cũng đã đào rồi, hắn còn làm gì được tôi?

Ông chủ Triệu nói: “Dương huynh đệ tài năng xuất chúng, nhưng không nên vì anh hùng thì phải khiêm nhường mà cam tâm chôn vùi tài năng của mình. Với kỹ năng này của cậu, sao lại chỉ dùng vào việc đào trộm mộ quân phiệt được, sao cậu không nghĩ tới chuyện xây dựng nghiệp lớn?”

Dọc đường, ông chủ Triệu cũng tâm sự rất nhiều, nhưng Dương Phương không nghĩ như vậy: “Nếu để cho ông chủ Triệu này ăn bánh ngô hấp với rau muối vài tháng thì ông ta cũng chẳng còn tâm trí đâu mà lo việc dân việc nước nữa.”

Chiều ngày hôm đó, họ tới một bến phà bên bờ sông Hoàng Hà, đây là một khúc quanh của dòng sông, chỉ thấy dòng nước chảy xiết, nước cuộn ầm ầm. Phía nam bờ sông là bên đất bồi, khoảng không rộng lớn, có mấy gian nhà đất nhấp nhô, bên trên cắm một ngọn cờ đã cũ rách, viết chữ “Quán trọ Cổ Độ”, gió mạnh thổi cờ bay phần phật, phía xa xa có mấy con chó hoang đang gặm xương người, một vùng hoang vắng, nhìn ra xa nữa chỉ là những điểm đen nhỏ li ti.

7

Ông chủ Triệu nhìn bản sơ đồ một hồi lâu, nói với ba người còn lại, theo kinh nghiệm thu thập cổ vật và khảo cổ của ông, ngôi chùa cổ thời Bắc Tống nằm ở vị trí này, chính điện của ngôi chùa đã bị nhấn chìm trong đám bùn đất của sông Hoàng Hà trong những trận đại lụt. Đồ Hắc Hổ cho rằng ngôi chùa cổ ở vị trí gần thành Khai Phong, nên đội quân phiệt chỉ đào bới xung quanh thành. Cách đó rất xa, có một quán trọ hẻo lánh, cả nhóm tạm thời dừng chân ở quán trọ rồi tìm kiếm kỹ càng sau, chắc chắn sẽ có thu hoạch, đừng để người khác phát giác.

Dương Phương nói: “Ông chủ Triệu không biết đấy thôi, nghe nói quán trọ bên bờ sông là một hắc điếm, chuyên làm bánh bao nhân thịt người, ông chở một quan tài đưa người chết về quê mai táng chỉ là để che mắt quân phiệt, nhưng không thể nào qua mắt được bọn giang hồ kia, nếu vào ở trọ chắc chắn bị bỏ thuốc mê, giết thịt làm nhân bánh, đầu, chân tay và xương thì bị vứt xuống sông Hoàng Hà.”

Ba người nghe nói vậy thì đều cảm thấy buồn nôn, bất giác rùng mình. Thời thế loạn lạc, chuyện bán bánh bao nhân thịt người chưa chắc chỉ là lời đồn.

Nhị Bảo thốt lên: “May có Lục ca nhắc nhở, nếu không mình trọ lại ở đây chắc ăn phải bánh bao nhân thịt người mất.”

Dương Phương nói: “Huynh đệ, tụi mình ăn phải mấy chiếc bánh bao nhân thịt người cũng không sao, chứ trông cậu toàn thân đều là thịt ba chỉ thế này, là loại thịt cao cấp làm nhân bánh bao đấy, chủ tiệm nỡ tha cho cậu sao, cho một liều thuốc mê, lột hết quần áo, trói lên bàn mổ…”

Nhị Bảo kinh hoàng: “Lục ca à, nghe nói hắc điếm cũng là hảo hán lục lâm, họ cũng phải phân biệt tốt xấu chứ, gặp người là giết hết sao?”

Đạm Đài Minh Nguyệt nói: “Nhị Bảo đừng tin anh ta nói xằng, anh ta đã ở quán trọ này đâu mà biết, dựa vào đâu mà nói người ta là quán bánh bao nhân thịt người?”

Ông chủ Triệu nói: “Không thể không đề phòng, Dương huynh đệ nói không sai. Chúng ta kéo theo một cỗ quan tài đi trên đường còn lý giải được, nếu ở trọ dài ngày trong quán nhất định sẽ gây sự chú ý. Dương huynh đệ, theo ý cậu chúng ta nên làm gì?”

Dương Phương nói: “Theo quy tắc giang hồ, đành phải trả thêm ít tiền cho chủ tiệm, nói rõ sự tình, bảo họ đừng quản việc người khác.”

Bốn người bàn bạc xong xuôi, đánh xe tiến về phía quán trọ. Tới gần mới biết, trong đó không một bóng người, bụi bám dày đặc. Xem ra, từ trận lụt trước đây thì mọi người đã tháo chạy hết, chỉ còn lại mấy gian phòng ẩm thấp, thông thống gió, nhưng như vậy cũng bớt được rất nhiều phiền phức. Triệu Nhị Bảo không còn lo bị người ta giết thịt làm nhân bánh nữa, cậu ta vui vẻ buộc lừa bên ngoài cửa tiệm, rồi lại bận rộn dọn dẹp phòng trọ. Trời cũng vừa sập tối, gió mạnh dần lên, tiếng gió rít nghe như tiếng sói tru ma khóc, chân trời một màu vàng ệch.

Có quán trọ hoang làm chốn nghỉ chân, mọi người cũng an tâm phần nào, nếu không nhà không cửa mà gặp phải trận cuồng phong này thì không còn cách nào để qua đêm cả.

Mọi người chuyển cỗ quan tài nặng trịch đó vào bên trong, ăn qua loa vài miếng lương khô lót dạ. Nhị bảo xuống bếp đun nước, ông chủ Triệu nói chuyện với Dương Phương và Đạm Đài Minh Nguyệt: “Chúng ta phải ra tay trước Đồ Hắc Hổ, thời gian không đợi chúng ta, đêm nay nghỉ ngơi cho tốt, sáng sớm mai là bắt tay vào tìm chùa Đại Hộ Quốc ngay.”

Dương Phương mở quan tài ra xem xét, bên trong có bốn khẩu súng săn hai nòng và thuốc nổ. Giờ nơi đây hoang vu không một bóng người, đêm đến ngoài thú hoang ra thì chỉ sợ gặp thổ phỉ nên vẫn cần có súng để phòng thân. Ngoài ra còn có đèn pin, xẻng đào đất, đến đồ đi săn và lương khô v.v… đều chuẩn bị đầy đủ.

Ông chủ Triệu giở cuốn sổ vẫn luôn mang theo bên người, trong đó có một bản sơ đồ vẽ bố cục Hộ quốc đại Phật tự. Chỉ cần tìm thấy một Phật đường hay gian điện nào đó trong chùa, rồi đối chiếu với bản đồ là có thể tìm ra gian chính điện. Tượng phật nằm và bức tượng nghìn tay nghìn mắt đều trong gian chính điện. Ông phân tích, phía sau quán trọ có những mô đất cao hơn những mô đất khác, nếu không nhầm thì đó chính là Phật pháp của ngôi chùa, nếu vậy thì phía bên dưới nền đất của quán trọ này chính là gian chính điện.

Dương Phương nói: “Chuyện này chẳng phải dễ như trở bàn tay sao, chỉ cần tìm đúng vị trí, ngày mai cứ đào từ đây xuống, nhiều lắm cũng một hai ngày là xong.”

Ông chủ Triệu nói: “Chuyện không đơn giản như vậy. Có một điều mà tôi phải đợi đến đây mới nói với mọi người được. Thời Bắc Tống khi xây dựng ngôi chùa bên dòng sông, có một truyền thuyết rất đáng sợ, mọi người có tin rằng… bức tượng Phật nghìn tay nghìn mắt là để trấn áp thủy quái dưới sông Hoàng Hà không?”

8

Dương Phương nghe ra đằng sau chuyện này còn có sự việc khác, liền hỏi: “Ông chủ Triệu nói tượng Phật của chùa Đại Hộ Quốc trấn… thủy quái? Chuyện là thế nào?”

Ông chủ Triệu nói: “Đó là lời đồn từ rất nhiều năm trước, tôi chỉ lo nếu di chuyển bức tượng Phật sẽ dẫn dến tai nạn không thể lường trước được.”

Đạm Đài Minh Nguyệt nói: “Chú không cần lo lắng, những ghi chép dã sử đó làm sao mà thật được.”

Ông chủ Triệu cũng mong đó chỉ là do ông quá lo lắng, nói chung chờ tới khi nhìn thấy bức tượng phật nghìn tay nghìn mắt đó thì sẽ biết sự việc là thế nào.

Dương Phương hỏi: “Lấy được tượng phật rồi thì để trong cỗ quan tài này chuyển đi sao?”

Ông chủ Triệu nói: “Đúng vậy, kích thước bức tượng đó cũng tương đương với người thật, để trong quan tài chở qua sông, tìm nơi nào bọn quân phiệt không thể tìm được rồi chôn. Thiên hạ không thể cứ loạn lạc mãi được, Đồ Hắc Hổ tự cho mình dũng mãnh, giết người không ghê tay, sau này không thể nào lọt qua lưới trời, sớm muộn gì cũng bị quả báo. Chờ thời thế hết loạn lạc, chúng ta sẽ đào bức tượng lên trả nó về cho nhân dân.”

Dương Phương vẫn cảm thấy chuyện này có gì đó rất lạ, định truy hỏi thêm việc bức tượng phật đó trấn áp yêu quái gì, nhưng do ông chủ Triệu tuổi đã cao, liên tục đi hơn mười ngày đã thấm mệt, Triệu Nhị Bảo dọn dẹp xong gian phòng trong mời ông vào nghỉ ngơi, Dương Phương cũng không hỏi thêm nữa.

Ngôi quán trọ bỏ hoang bên bến phà cạnh dòng sông có khoảng bảy tám phòng trọ, đều có sẵn giường, quét đi lớp bụi bên trên là có thể sử dụng. Ông chủ Triệu nghỉ tại gian phòng ngoài cùng phía tây, lúc này cũng đã muộn, ba người còn lại ngồi ở đại sảnh, thắp một ngọn đèn dầu, sắp xếp lại đám dụng cụ trong quan tài tiện cho ngày mai sử dụng. Quán trọ hoang tàn, tứ bề lộng gió, ngọn đèn dầu lúc tỏ lúc mờ, bên ngoài vọng lại tiếng kêu “ngao ngao” nghe rất lạ, cũng không rõ là tiếng sói hoang hay tiếng gió thổi.

Đạm Đài Minh Nguyệt nghĩ tới chuyện Dương Phương kể về bánh bao nhân thịt người, ban ngày thì cô không sợ, nhưng giờ trời đã tối đen, không khỏi cảm thấy rùng rợn, cô lên tiếng trách Dương Phương: “Dương Lục, tôi thấy trong quán trọ này làm gì có thứ gì giống như bàn mổ đâu, câu chuyện của anh chỉ là bịa thôi.”

Dương Phương nghĩ thầm: “Ta hành tẩu giang hồ có ai dám không gọi ta một tiếng Dương Lục ca, riêng cô đại tiểu thư này không coi mình ra gì, gọi thẳng mình là Dương Lục, mình không dọa được cô ta đêm nay gặp ác mộng thì chẳng phải hổ danh anh hùng hảo hán sao…”

Dương Phương nghĩ vậy rồi nói với Đạm Đài Minh Nguyệt và Nhị Bảo rằng, không ngờ quán trọ bên bờ sông đã bị bỏ hoang từ lâu, nhưng chuyện bánh bao nhân thịt người là có thật, sư phụ anh ta đích thân gặp phải chuyện này. Năm đó, sư phụ anh ta chuyên tới vùng này buôn bán, một mình tới nghỉ trọ ở quán này, chỉ thấy xung quanh hoang vắng, chủ quán là một quả phụ, có hai thanh niên to khỏe làm phụ tá, bán cho sư phụ anh ta hai chiếc bánh bao còn nóng hổi. Ông thấy nhân chiếc bánh bao toàn mỡ, vừa thơm vừa ngon…

Đạm Đài Minh Nguyệt nghe tới đó thì cau mày còn Nhị Bảo lấy tay bịt miệng kêu lên: “Lục ca, sư phụ huynh ăn bánh bao thịt người à?”

Dương Phương kể tiếp tiếp rằng không phải vậy, dựa vào nhãn lực của sư phụ anh ta, nhìn vào nhân bánh bao ông phát hiện ra giống như thịt người, là phần thịt gần mông và đùi, nếu không thì sao có nhiều mỡ như vậy? Do nghi ngờ nên cố nhịn đói không ăn. Tới nửa đêm, khi ông đang nằm ngủ trên giường thì nghe thấy tiếng động dưới gầm giường, như có người đang kéo giường của ông cụ, nghe cọt kẹt cọt kẹt, âm thanh đó vang lên giữa đêm khuya khiến người ta ghê rợn, dựng cả tóc gáy.

Dương Phương khéo kể chuyện, thêm nữa bên ngoài gió rít nghe như tiếng ma hờn quỷ khóc, khiến Nhị bảo sợ run người nhưng vẫn muốn nghe tiếp, cứ liên tục hỏi sau đó rồi sao? Không lẽ bọn người hắc điếm trốn dưới gầm giường, định giết sư phụ huynh để làm nhân bánh bao?

Dương Phương nói không phải, nếu người quán trọ trốn dưới gầm giường thì còn kéo giường làm gì? Sư phụ anh ta cũng băn khoăn không hiểu vì sao, nghe gõ vài cái rồi im lặng, giờ lại thấy có tiếng cào gõ, ông liền dậy thắp đèn xem có gì dưới gầm giường. Ôi mẹ ơi, là một xác người mất đầu, chắc là nạn nhân trong ngày bị giết, giấu trong gầm giường chưa kịp dọn dẹp. Thịt trên đùi đã bị xẻo đi làm nhân bánh, không biết là do thi biến hay sao mà xác chết không đầu này cứ lấy tay gõ vào thang giường.

Đạm Đài Minh Nguyệt biết đây chỉ là Dương Phương bịa chuyện để dọa người nhưng nơi hoang vu lạnh lẽo này nghe kể chuyện ma thì cũng không khỏi sợ hãi, trong lòng thấy bất an vô cùng.

Dương Phương cười thầm trong bụng, nói mọi người tranh thủ nghỉ ngơi, ngày mai còn phải bận rộn. Nói xong vào phòng mình đóng cửa lại, để chiếc roi đồng phía dưới gối, không nghĩ ngợi gì, trong đầu trống rỗng, một lúc sau thì chìm vào giấc ngủ. Ngoài trời bỗng nổi luồng âm phong, lạnh đến thấu xương, trên người nổi hết da gà. Anh choàng tỉnh dậy, cửa phòng bị gió thổi bật ra, có một người toàn thân máu me bê bết từ bên ngoài bước vào.

9

Dương Phương thất kinh, giật mình tỉnh dậy, thấy toàn thân lạnh toát, mồ hôi nhễ nhại, nhìn lại thấy cửa phòng vẫn đóng, đêm đã khuya, trong phòng không có ai cả, chợt nghĩ bụng: “Tự mình nghĩ chuyện bánh bao nhân thịt người định bụng dọa cô gái không biết trời cao đất dày kia, nào ngờ lại dọa chính mình, nửa đêm nửa hôm nằm mơ thấy ác mộng này, thật chẳng có đầu đuôi gì.”

Sư phụ của Dương Phương giờ không rõ tung tích, chẳng truyền lại bùa mô kim cho anh ta nên anh ta hành sự chẳng theo quy tắc của mộc kim hiệu úy[2], hơn nữa anh ta lại học được nhiều kỹ nghệ trên giang hồ, gan dạ không ai bằng, nhưng giờ nằm mơ thấy gì anh ta cũng không rõ, xem xét lại lần nữa trong phòng không có gì khả nghi lại lên giường nằm, vừa nhắm mắt, trời lại nổi gió âm, cửa phòng bật mở, một người mình đầy máu me, từng bước tiến gần lại giường anh ta, Dương Phương hét lên một tiếng rồi tỉnh dậy, nhìn quanh phòng vẫn không thấy gì, mồ hôi toát ra ướt đẫm áo, tim đập thình thịch, tại sao lại nằm mơ hai lần giấc mơ giống hệt nhau?

[2] Mộc Kim Hiệu Úy: là một phái chuyên đi đào trộm mộ của thời xưa của Trung Quốc. Theo sử sách ghi chép, Mộc Kim Hiệu Úy bắt nguồn từ cuối thời Đông Hán, Tam Quốc. Lúc đó, thủ lĩnh quân Ngụy là Tào Tháo vì để bổ sung quân lương bị thiếu hụt đã thiết lập ra các quân hàm như Phát Trung Lương Tướng, Mộc Kim Hiệu Úy v.v… chuyên đi đào trộm mộ, bổ sung cho quân đội. Phái đào mộ Mộc Kim Hiệu Úy chủ yếu dựa vào xem phong thủy, phân biệt thời tiết, dựa vào “kim dịch” làm tôn chỉ để xác định huyệt mộ của mộ cổ.

Anh ta nghĩ bụng: “Gặp ma rồi, không lẽ quán trọ này có ma? Nhưng nếu lúc này mà gọi mọi người dậy thì vị đại tiểu thư kia và Nhị bảo sẽ cười mình mất, sau này mình còn mặt mũi nào mà gặp mọi người?”

Dương Phương nhảy ra khỏi giường, lại xem xét mọi ngóc ngách trong phòng, không thấy gì khác lạ, nghĩ bụng: “Nghĩ nhiều sinh ra ma quỷ, mình không thèm để ý đến nó xem thế nào.” Nghĩ rồi, anh ta nằm xuống giường ngủ, vừa nhắm mắt thì gió lại nổi lên, cánh cửa phòng lần thứ ba bị bật mở, người đàn ông toàn thân máu bê bết đó lại bước vào từ bên ngoài, tóc Dương Phương dựng ngược hết cả lên, nhưng anh ta đúng là gan to bằng trời, cố gắng không động đậy, nằm im theo dõi người đó tiến lại gần mình, anh thấy người đó như đang muốn nói gì với mình, hình như đó là từ “Mau chạy đi!”

Dương Phương thất kinh, nhìn lại trong phòng đã trở lại như bình thường, toàn thân lạnh toát. Người trên giang hồ không có ai không tin điềm báo, trong lòng nghĩ: “Giấc mơ đó sinh động như thật, chỉ e đây là điềm báo không lành, hơn nữa mình nằm mơ ba lần đều chung một nội dung, trong phòng này chắc có ma, con ma đó là ai? Tại sao muốn nhắn mình hãy chạy thoát? Không lẽ sẽ xảy ra chuyện lớn?”

Trong lòng đang nghĩ ngợi như vậy thì trời hửng sáng, nhóm Đạm Đài Minh Nguyệt đã dậy thay đồ.

Đạm Đài Minh Nguyệt thấy Dương Phương sắc mặt nhợt nhạt, tinh thần hoảng hốt, như kiểu cả đêm không ngủ được thì cười trêu: “Dương huynh, sao sắc mặt anh khó coi thế? Không lẽ đêm qua kể chuyện ma lừa bọn tôi cuối cùng thành dọa chính mình?”

Dương Phương vốn định đem chuyện đêm qua nằm mơ kể lại cho ba người kia nghe, chỉ e có chuyện liên quan tới tính mạng, nên mau chóng rời khỏi nơi đây. Nhưng vừa nghe Đạm Đài Minh Nguyệt nói vậy, không dám để mất mặt đành nói: “Cứ nghĩ tới dân tình khổ cực, cả đêm suy nghĩ không ngủ được.”

Ông chủ Triệu nói: “Thật đáng quý, Dương huynh đệ người trong giang hồ mà có chí cả, lúc ngủ cũng không quên lo lắng cho bách tính. Thời thế loạn lạc, cho dù là tàn binh bại tốt thì cũng nên cống hiến cho quốc gia, lần này chúng ta đi tìm tượng phật nghìn tay nghìn mắt, không được để rơi vào tay Đồ Hắc Hổ, chính là bảo vệ quốc bảo.”

Dương Phương đồng tình: “Ông chủ Triệu nói đúng lắm. Chúng ta hoàn thành việc này chính là góp thêm công đức trên tòa Phật tháp.”

Ông chủ Triệu nói: “Tốt! Vậy thì lát nữa chúng ta ra phía sau quán trọ bắt đầu nào, xem bên dưới có Phật tháp không.”

Nói chuyện một hồi như vậy, Dương Phương cũng không có cơ hội kể lại việc gặp ma đêm qua. Anh thấy nhóm ông chủ Triệu đã thay trang phục đi săn, từ đầu đến chân đều là đồ Anh quốc, trong lòng nghĩ, kiểu Tây à, nhưng đúng là mặc đồ này vào thì làm việc dễ dàng hơn. Bên ngoài trời nổi gió to, cát bụi bay mù mịt, bốn người đi trong gió cát tới phía sau quán trọ bắt tay vào đào. Dưới lớp đất cát là một lớp đất khô cứng, tiếp tục đào thêm mấy tấc nữa, bên dưới lộ ra lớp gạch, quả nhiên là có Phật tháp. Ông chủ Triệu mừng rỡ, hai mắt sáng ngời, ngôi chùa có tượng Phật nghìn tay nghìn mắt thời Bắc Tống đây rồi, chính điện của ngôi chùa ngay bên dưới quán trọ bên bờ sông Hoàng Hà, ông bỏ ra bao công sức nhiều năm nay để đi tìm, giờ phút này tìm được vẫn chưa dám tin là sự thật.

Dương Phương không hiểu bức tượng kia có sức quyến rũ như thế nào khiến ông chủ Triệu mê mẩn đến như vậy, cũng muốn nhanh chóng được nhìn thấy. Anh ta dắt theo Nhị Bảo vào bên trong bức tường phía sau quán trọ tiếp tục đào, đào tới giữa trưa thì được một hố to, phía dưới lớp đất cát là lớp ngói thẳng hàng, cho thấy mặc dù Phật điện bị bùn đất lấp đầy nhưng sau khi đất cát đã khô thì tạo thành một lớp vỏ bọc cứng, sau bảy tám trăm năm gian điện thờ vẫn giữ được nguyên vẹn. Dỡ bỏ lớp ngói bên trên, phía dưới đen ngòm, bên trong Phật điện cột kèo đã mục nát, không biết sẽ sập xuống lúc nào. Bốn người họ quay vào trong chuẩn bị dây thừng, đèn pin, còn mang theo mấy bó đuốc, đợi không khí ẩm mốc trong Phật điện tan hết mới dám xuống.

Lúc này, gió thổi mạnh hơn, từng trận nổi lên ù ù, quán trọ bỏ hoang đã nhiều năm không được sửa chữa, mái nhà chỉ là những tấm gỗ, bên dưới lót lớp cỏ khô, giờ bị những trận gió thổi bay tơi tả, bốn người nép sát chân tường đất, vừa tránh gió vừa ăn tạm lương khô, nhưng gió thổi bay cát bụi đầy mồm, không thể nào nuốt nổi.

Dương Phương tìm cơ hội hỏi ông chủ Triệu: “Tượng Phật nghìn tay nghìn mắt trấn áp vật gì bên dưới vậy? Có phải là yêu quái sông Hoàng Hà không?”

Ông chủ Triệu nói: “Không chỉ đơn thuần là lời đồn, Hoàng Hà năm nào chẳng lũ lụt, nhiều năm trước…”

Dương Phương đưa tay lên ra hiệu mọi người im lặng: “Từ từ, tôi nghe thấy như có tiếng người đi lại phía chúng ta, không phải tiếng gió đâu.”

Quán trọ bên bờ sông vốn hoang vu không một bóng người, tầm nhìn không bị cản trở, một vùng trước mắt toàn là cỏ khô, lúc này gió thổi mạnh cát bay mù mịt, Dương Phương phóng tầm mắt ra xa, chỉ nhìn một cái mà đã thở hắt ra, giấc mơ gặp ma đêm qua đã thành hiện thực.

Ông chủ Triệu phát hiện tình hình không ổn, chỉ thấy trong lớp bụi mờ xuất hiện một dải màu đen, khi khoảng cách gần hơn mới biết đó là đội quân phiệt, phía trước toàn là kỵ binh, tiếng vó ngựa ngày càng gần, ầm ầm như thác đổ, bụi cát cuộn bay mù mịt.

Đọc tiếp: Ma câm: Ma Khóc Dưới Hồ Tiên Đôn - Phần 11
Home » Truyện » Truyện Ma » Ma câm: Ma Khóc Dưới Hồ Tiên Đôn
↑ Trên cùng
Trang chủ
Copyright © Thich123.net
Liên kết © Uhm123.net - HIM18.COM