Teya Salat

Các bạn truy cập vào HIM18.COM để đọc truyện MỚI nha. Mong các bạn ủng hộ website mới này!

Quán trọ hoang thôn - Trang 9

NGOẠI TRUYỆN - HOANG THÔN 1

Mấy tuần trước, tôi có một chuyến du lịch ngắn ngày tới vùng ven biển Chiết Giang và đã trải qua một việc hết sức kỳ lạ. Những độc giả tò mò cứ truy hỏi tôi đã đi đâu, bây giờ, tôi sẽ nói với các bạn – đó là một nơi tên là Hoang thôn.

Mọi thứ đều bắt đầu từ cuốn "Quán trọ u hồn" của tôi gần đây mà ra, giống cái tên của nó, câu chuyện trong cuốn tiểu thuyết kinh dị này xảy ra tại một nơi gọi là quán trọ u hồn, quán trọ u hồn chính là tại Hoang thôn – một sơn thôn nhỏ của Chiết Giang, tọa lạc giữa biển và nghĩa trang, do một mặt hướng về phía biển hoang sơ, nên nó có tên gọi là Hoang thôn. Trên thực tế, tôi chưa từng tới Hoang thôn, bởi vì địa danh này đơn thuần chỉ là do tôi hư cấu nên để tạo nên một địa danh độc đáo cung cấp cho tiểu thuyết. Tôi nghĩ nếu như không phải do lần ký tên bán sách đó, thì có lẽ Hoang thôn vĩnh viễn chỉ có thể tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi mà thôi.

Ký tên bán sách "Quán trọ u hồn" được tiến hành trong một hiệu sách tại ga tàu điện ngầm. Không hiểu vì lí do gì, họ lại bố trí thời gian ký tên bán sách sau bảy giờ tối. Tôi đó tôi ngồi sau chiếc bàn đặt gần cửa ra vào hiệu sách, hoạt động ký tên bán sách tiến hành trong khoảng hai tiếng đồng hồ, kết quả rất khả quan.

Đúng 9 giờ là hiệu sách đóng cửa, người qua lại trong tiền sảnh nhà ga cũng dần thưa thớt, tôi ngồi một mình bên bàn kí sách, cúi đầu sắp xếp đồ đạc chuẩn bị ra về.

Bỗng nhiên, bên tai truyền lại tiếng bước chân nhẹ nhàng, tôi lập tức ngẩng đầu lên thì nhìn thấy một cô gái trẻ đang đứng trước mặt mình. Cô ấy mặc một chiếc áo len rộng thùng thình, không hề vừa vặn với cơ thể, vạt áo gần như chạm tới cả đầu gối, sau lưng khoác chiếc cặp giả da giá rẻ, mái tóc đen dài được chải đuôi ngựa, xem dáng vẻ giống một nữ sinh đại học.

Cô ấy cụp mi xuống, hai tay cầm cuốn "Quán trọ u hồn" của tôi, không nói lấy một lời đặt cuốn sách lên bàn ký tên. Lúc đó tôi có chút ngỡ ngàng, đêm đông rét mướt cắt da cắt thịt của Thượng Hải, điều hòa nhiệt độ cùa hiệu sách bị hỏng đang khiến tôi rét run cầm cập. Cô ấy chính là độc giả cuối cùng ký tên trong buổi tối hôm đó nhưng sắc mặt lại vô cảm, không nói lấy một lời, giống như đang quẳng sách cho nhân viên thu ngân vậy. Tôi ngừng lại hồi lâu, ngẩng đầu tỉ mỉ nhìn cô ấy, đó là một khuôn mặt thanh tú, khiến thu hút người đồi diện, thậm chí còn khiến người ta nảy sinh cảm giác thương cảm. Tôi lật trang đầu tiên của cuốn sách, nhìn vào mắt cô ấy hỏi: "Xin hỏi tên của cô?"

Cô ấy hơi ngỡ ngàng, mí mắt lại cụp xuống, trả lời bằng giọng nhỏ nhẹ: "Tiểu Chi".

"Tiểu Chi?" thật kỳ lạ, tôi lập tức nghĩ tới tên của một chiếc sáo, "Là Tiểu Chi trong từ tiểu đại, Chi trong từ chi cảnh ư?"

Cô ấy không nói gì, chỉ gật dật đầu.

Tôi chau mày, viết lên trang đầu dòng chữ "Tiểu Chi gìn giữ", sau đó kí tên. Tôi trao sách vào tay cô ấy nói: "Cảm ơn cô, muộn thế này rồi mà con tới mua sách của tôi".

Cô ấy rút cuộc mở to mắt nhìn tôi, hình như muốn nói điều gì đó, môi mấp máy nhưng không thốt nên lời. Tôi nhướn nhướn lông mày, ám thị để cô ấy trấn tĩnh lại. Cuối cùng, cô ấy hít một hơi thật sâu nói: "Tôi đến từ Hoang thôn".

Ban đầu, tôi vẫn chưa hiểu ra nhưng cô ấy cứ nhìn tôi chằm chằm như vậy cho tới khi sắc mặt tôi có chút biến đổi – Hoang thôn? Trong đầu tôi rút cuộc đã lướt qua cái địa danh trong chính tiểu thuyết của mình. Tôi kỳ quái nhìn cô gái tên là Tiểu Chi đang đứng trước mặt mình, lẽ nào cô ấy từ trong tiểu thuyết của tôi bước ra?

Đối diện với ánh mắt sắc nhọn của tôi, cô ấy lại cúi đầu, miệng lẩm bẩm thốt ra vài từ gì đó nghe không rõ, hình như là nói "Xin lỗi". Cô ấy cầm quyển sách bước tới trước quầy thu ngân trả tiền rồi vội vàng đi khỏi hiệu sách.

Hoang thôn? Tim tôi dường như bị cái gì đó tóm lấy, lập tức xoái chân lao ra khỏi hiệu sách, trước khi tiến vào cửa soát vé một giây, rút cuộc cũng gọi được cô ấy dừng lại. Cô ấy hơi giật mình, bối rối quay đầu lại: "Xin lỗi, có việc gì không?"

Thực ra tôi còn bối rối hơn cô ấy, căng thẳng xoa tay nói: "Tôi có thể... có thể mời cô uống cốc trà không?"

Cô ấy đắn đo một lúc: "Được thôi, tôi cho anh mười phút".

Ba phút sau, tôi đưa cô ấy vào một quán trà phía trên ga tàu điện ngầm. Cô ấy ngồi đối diện với tôi, vẫn không nói lấy một lời, chỉ cúi đầu nhâm nhi trà. Tôi nhìn nhìn đồng hồ, thời gian cô ấy dành cho tôi không còn nhiều nữa rồi, tôi ho một tiếng nói: "Xin lỗi, cô nói... cô đến từ Hoang thôn?"

Tiểu Chi rút cuộc đã ngẩng đầu lên, nhìn vào mắt tôi, cầm gật nhẹ.

"Hoang thôn ở đâu"

"Tại thị trấn Tây Lãnh của thành phố K tỉnh Chiết Giang. Giống như trong tiểu thuyết của anh viết vật, Hoang thôn tọa lạc giữa biển và nghĩa trang".

Nhìn đôi mắt đen láy như ngọc thạch của cô ấy, tôi tin cô ấy không nói dối: "Cô nói là Hoang thôn thực sự tồn tại sao?"

"Đương nhiên, Hoang thôn đã tồn tại mấy trăm năm nay rồi. Tôi sinh ra ở Hoang thôn, lớn lên ở Hoang thôn, tôi chính là một người dân Hoang thôn". Cô ấy lảng tránh ánh mắt tôi, nhẹ nhàng nói: "Tôi nghĩ anh nhất định chưa từng tới thị trấn Tây Lãnh, càng không thể tới Hoang thôn?"

Tôi bỗng nhiên có chút bối rối: "Đúng, tôi chỉ nhìn thấy thị trấn Tây Lãnh trên bản đồ, còn về Hoang thôn thì hoàn toàn là do tôi tưởng tượng ra, tôi thấy cái tên này rất phù hợp với không khí mà tiểu thuyết cần. Tôi không ngờ rằng Hoang thôn thực sự tồn tại, lại còn có cả một người Hoang thôn đến xin chữ ký, cảm ơn cô nói với tôi những điều này".

"Thực ra, hôm nay tôi chỉ tình cờ đi qua đây, chuẩn bị ngồi tàu điện ngầm về trường thì nhìn thấy quảng cáo trước cửa hiệu sách. Mấy hôm trước tôi có xem qua cuốn truyện này của anh, nó đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc, thế nên tôi vào mua một quyển xin chữ ký của anh".

"Nói như vậy thì trùng hợp rồi. Tôi cũng rất trùng hợp khi viết về Hoang thôn tồn tại trong hiện thực vào tiểu thuyết, còn cô là một người dân Hoang thôn lại rất trùng hợp gặp tôi trong hiệu sách dưới ga tàu điện ngầm".

Tiểu Chi khẽ gật đầu.

Tôi tiếp tục hỏi: "Ban nãy cô vừa nói muốn ngồi tàu điện ngầm về trường? Cô học đại học ở Thượng Hải sao?"

"Đúng, năm nay năm thứ hai".

Bỗng nhiên, tôi giơ cổ tay nhìn đồng hồ nói: "Thời gian cô cho tôi hết rồi".

"Ngại quá, ngày mai tôi còn phải hti nên phải về trường sớm".

Cô ấy vội vàng đứng dậy, vẫn cứ cúi đầu bước ra ngoài. Đúng lúc này, lòng tôi đã ra một quyết định quan trọng, tôi lập tức chạy lên gọi cô ấy lại: "Tiểu Chi, cô thi xong thì trường cũng nghỉ đông đúng không?"

"Đúng, đợi tới khi nghỉ đông tôi sẽ về nhà".

"Về Hoang thôn?"

Tiểu Chi hình như có chút sợ hãi: "Đương nhiên".

"Tôi cũng muốn đến Hoang thôn".

"Cái gì?" Cô ấy hiển nhiên chưa chuẩn bị trước tâm lý, chỉ hoang mang lắc đầu nói, "Không thể được... cái này không thể được... xin đừng đùa cợt như thế".

"Tôi không đùa cợt, đã quyết định rồi. Tôi chỉ muốn đến xem cái nơi đã xuất hiện trong tiểu thuyết của tôi, chắc là rất có ý nghĩa. Cô nói Hoang thôn giống hệt như trong tiểu thuyết viết, nằm giữa biển và nghĩa trang. Đã trùng hợp vậy rồi, thì số tôi nhất định có duyên với Hoang thôn. Tiểu Chi, cô chỉ cần dẫn đường cho tôi là được rồi".

Cô ấy nhìn vào mắt tôi, nhíu mày lùi lại một bước, tôi chỉ cảm thấy trên người cô ấy toát lên chút sợ hãi. Cô ấy bắt đầu thở dốc: "Không, tôi không biết..."

Tôi cười bối rối nói: "Dĩ nhiên, chúng ta chẳng qua là hai người không quen biết gặp nhau, cô đương nhiên có thể nói không với tôi. Như thế này vậy, tôi đưa danh thiếp cho cô, nếu như cô đồng ý đưa tôi tới Hoang thôn thì gọi điện cho tôi".

Nói xong, tôi tự mình nhét danh thiếp vào tay Tiểu Chi, cô ấy tay chân cuống quýt, quay đầu đi giống như con thú nhỏ trốn chạy người thợ săn, vội vàng chạy khỏi quán trà. Tôi chậm rãi theo sau, nhìn cô ấy mất hút nơi góc phố Thượng Hải lạnh giá.

Cô ấy đến từ Hoang thôn.

NGOẠI TRUYỆN - 2

Hai tuần qua đi, Tiểu Chi vẫn không liên lạc với tôi, tôi nghĩ cô ấy có thể là đã về Hoang thôn rồi, có thể Hoang thôn vốn không tồn tại, chẳng qua là cô ấy đùa cợt mình mà thôi? Tôi gần như đã quên mất việc này, quên cả cô gái tên là Tiểu Chi.

Nhưng vào một buổi sáng sớm, chuông điện thoại đột ngột vang lên, tôi mắt mũi nhập nhèm nghe điện thoại, nghe thấy giọng con gái nhỏ nhẹ... Sau vài giây bất ngờ, mắt tôi bỗng nhiên mở to, là cô ấy?

Là cô ấy. Sáng sơm, Tiểu Chi bỗng nhiên gọi điện thoại cho tôi, vẫn là ngữ khí và giọng nói đó: cô ấy đồng ý đề nghị của tôi, có thể đưa tôi tới Hoang thôn, sáng mai gặp nhau tại bến xe khách liên tỉnh.

Sáng sớm hôm sau, tôi tới bến xe khách đúng giờ. Đang là thời kỳ cao điểm, tôi chen chúc trong đám người hồi lâu mãi mới phát hiện ra Tiểu Chi. Tôi vẫy vẫy tay về phía cô ấy, biểu hiện của cô ấy có chút ngạc nhiên, miễn cưỡng gật đầu.

Nửa tiếng sau, tôi và Tiểu Chi bước lên một chiếc xe khách liên tỉnh, trạm cuối cùng là thị trấn Tây Lãnh thành phố K. Cô ấy ngồi ở ghế cạnh cửa sổ, trên người mặc một chiếc áo khoác dày cộm, cổ quấn khăn che cả cằm và hai má. Xe buýt ra khỏi thành phố, những máng ruộng vườn vàng đậm hai bên đường cao tốc Lô Hàng, cảnh sắc dần dần trở nên đơn điệu, chuyến đi ủ ê đó còn phài kéo dài bảy tiếng đồng hồ. Tôi càng lúc càng cảm thấy bối rối, Tiểu Chi từ lúc lên xe không nói lấy một câu, dường như nhìn mà coi như không thấy sự tồn tại của tôi. Hình như bên cạnh cô ấy, có một lan can tạo thành từ không khí, giam cầm nhốt chặt cô ấy bên trong, nếu như bước qua thì sẽ là vực sâu thẳm.

Xe khách sau khi tiến vào địa phận Chiết Giang, tôi rút cuộc không nhịn được nữa bèn nói: "Tại sao không nói chuyện?"

Tiểu Chi rút cuôc né người sang một bên: "Anh muốn tôi nói gì?"

"Tùy ý cô. Lẽ nào cô sợ đưa tôi tới Hoang thôn? Tự nhiên thấy hối hận?" Tôi nhìn thẳng vào mắt cô ấy, cúi đầu nói: "Nếu như cô bảo hối hận, tôi sẽ xuống ngay ở trạm tới và quay lại Thượng Hải".

Cô ấy kéo khăn quàng cổ xuống, rầu rĩ nói: "Không, tôi không hối hận, chẳng qua là chẳng biết nên nói gì cả".

"Nói về Hoang thôn đi".

"Chỉ là một thôn nhỏ bình thường, một bên là biển, một bên là nghĩa trang".

"Ngoài ra thì sao?" Tôi nhìn vào mắt Tiểu Chi hỏi. Nhưng cô ấy luôn lảng tránh ánh mắt của tôi, tôi có thể phát giác ra trong ánh mắt cô ấy đang ẩn chứa thứ gì đó khiến người ta khủng hoảng và cô ấy đang cố gắng hết sức không để tôi phát hiện ra điều đó. Còn nhiệm vụ của tôi chính là phải moi móc những thứ này ra từ ánh mắt cô ấy, giống như một hoạt động khảo cổ thần bí, "Hình như cô từng nói, Hoang thôn đã tồn tại mấy trăm năm rồi?"

"Theo như cha tôi nói, tổ tiên của người Hoang thôn đến từ trung nguyên, sau biến cô Tĩnh Khang triều Tống, họ đã theo Tống Cao Tông – Tống Triệu Cấu chạy tới Chiết Giang. Bởi vậy những nạn dân từ nơi khác xa xôi tới, chỉ có thể định cư trên bờ biển hoang sơ này".

"Thế tính ra cũng được mấy trăm năm rồi".

Lúc này, Tiểu Chi lặng lẽ quay đầu lại, ánh nắng ngày đông xuyên thấu qua cửa sổ soi đèn lên khuôn mặt cô ấy, giống như một lớp mạ vàng lên gương mặt. Cảnh săc đơn điệu bên ngoài tôn lên khiến khuôn mặt Tiểu Chi càng trở nên sống động...

Ba giờ chiều, đã tới thị trấn Tây Lãnh. Xung quanh thị trấn là những dãy núi miên man, giống hệt như những thị trấn nhỏ ven biển khác ở Chiết Giang, chỗ nào cũng có những người buôn bán nhỏ. Hình như Tiểu Chi không thích thị trấn Tây Lãnh, chiếc khăc quàng cổ của cô ấy che gần kín cả khuôn mặt. Chúng tôi xuyên qua bến xe, đáp lên một chiếc xe buýt nhỏ cũ nát, nó sẽ đưa chúng tôi tới Hoang thôn.

Xe buýt đi trên công lộ giữa làng quê, hai bên đường là những thửa ruộng và rừng cây mùa đông, tất cả đều toát lên vẻ sát khí. Theo đường núi lên dốc, cảnh sắc xung quanh càng lúc càng tiêu điều, ngoài những phiến đá lộ thiên, là những bụi cây thấp lè tè đang không ngừng run rẩy trong gió rét. Tôi không rời mắt khỏi phía cửa sổ, so với sự phồn hoa của thị trấn Tây Lãnh, ở đây giống như một thế giới khác vậy.

Khi chiếc xe buýt khó khăn leo lên dốc núi cao, tôi bỗng khẽ reo lên: "Biển!"

Tôi đã nhìn thấy biển ở phía xa rồi – biển đen. Tôi đã rất nhiều lần nhìn thấy biển, nhưng ở nơi hoang vắng này, biển cho người ta một cảm giác hoàn toàn khác lạ. Khó mà có thể hình dung bằng lời, dưới bóng mây đen trong ánh hoàng hôn, đường mặt biển phía xa xăm mờ ảo giống một bức tranh sơn dầu u uất.

"Tiểu Chi, cô đã đọc cuốn 'Quán trọ Jamaica' chưa? Thật kỳ lạ, tôi mới chỉ đi qua một ngọn núi mà lại giống như từ Chiết Giang của Trung Quốc đến bờ biển Tây Nam hoang vắng của nước Anh".

"Lúc học cấp ba tôi có đọc qua, thế nên mới thích tiểu thuyết do anh viết".

Nghe xong câu này của cô ấy, trong bụng tôi không khỏi thầm đắc ý.

Sau hơn chục phút lắc lư nghiêng ngả, trước mắt tôi bỗng chốc rộng mở thênh thang, một bia đá khổng lồ xuất hiện – Hoang thôn tới rồi.

Tôi giúp Tiểu Chi xách hành lý xuống xe, ngửa mặt chiêm ngưỡng tấm bia đá khiến người ta nhìn là đã thấy sợ hãi. Tấm bia đá ít nhất cũng cao mười mấy mét, khắc rất nhiều những hình thù phức tạp, ở chính giữa tấm bia có bốn chữ to thr61 chữ Khải – "Trinh Liệt Âm Dương".

Không biết bốn chữ này có nghĩa gì, nhưng đặt lên tấm bia đá to lớn này lại làm người ta sợ hãi rúm ró. Trời đã sẩm tối, bóng của tấm bia đá đổ lên người khiến tôi sững sờ.

Tiểu Chi thò tay chọc chọc vào người tôi: "Anh sao thế?"

"Không thể tin được tôi lại có thể nhìn thấy tấm bia đá to nhường này ơ Hoang thôn!"

"Đây là tấm bia tiết hạnh được hoàng đế ngự giá ban tặng. Mấy trăm năm trước, vào những năm Gia Tĩnh triều Minh, Hoang thôn có một vị tiến sỹ làm quan lớn ở triều định, để biểu dương mẹ của ông ấy. Hoảng đế đã ngự giá ban tặng tấm bia tiết hạnh này". Một cơn gió biển ào tới, Tiểu Chi lại cuốn khăn chặt thêm, "Đừng xem nữa, nhanh vào trong thôn thôi".

Tôi nhận biết phương hướng trước đã, phía đông là một bãi đá và vách núi, có thể nhìn thấy biển đen hung dữ, trên bề mặt biển ngưng đọng một tầng mây khói dày cộm. Còn phía bên kia lại miên man những dãy núi hoang vu. Và đằng sau tấm bia tiết hạnh, chính là Hoang thôn mà tôi kiếm tìm trong giấc mơ.

Xuyên qua tấm bia đá cao to đó, chỉ nhìn thấy những ngôi nhà ngói cổ kính và lác đác những ngôi nhà kiểu Tây mái tre điểm xuyết, sắc biển trời u ám soi rọi lên những mái ngói làm cả thôn xóm tăng thêm phần lạnh lẽo. Tôi thở dài một tiếng: "Bây giờ tôi đã hiểu tại sao lại gọi là Hoang thôn rồi".

Tiểu Chi đưa tôi tới một con ngõ nhỏ hẹp trong thôn, hai bên đều là những ngôi nhà cổ, hầu như không thấy bóng dáng người nào cả. Cô ấy cúi đầu bước đi, dường như đem cả sự xa lạ bước vào trong thôn. Tôi bắt đầu thấp thỏm không yên, khẽ hỏi: "Hoang thôn không có khách sạn sao?"

Cô ấy kéo khăn xuống: "Anh cho rằng ở đây có khách sạn sao? Hoang thôn từ trước tới nay đều rất khép kín, đã mấy năm nay không có người từ nơi khác tới rồi".

Tôi ngớ người ra một lúc: "Thế tôi ở đâu?"

"Thì ở đây".

Tiểu Chi thản nhiên nói, chỉ vào cánh cổng to bên cạnh.

Đây là một ngôi nhà cổ, hai bên cổng là bức tường vây cao sừng sững, cánh cổng to loang lổ đóng kín mít, trên hai tấm gỗ có một chiếc vòng đồng to. Tôi lùi lại nửa bước, mượn ánh sáng hoàng hôn để nhìn lên ba chữ khắc trên đố cửa cao to: "Tiến Sỹ Đệ".

Khi tôi vẫn chưa kịp phản ứng lại, Tiểu Chi đã đẩy cánh cổng màu đen. Ngưỡng cửa cao tới mấy chục mét, cô ấy bước một bước rộng tiến vào, quay đầu lại nói: "Vào đi".

Đối diện với cánh cổng cao to của "Tiến Sỹ Đệ", tôi lập cà lập cập đứng trước ngưỡng cửa nói: "Đây là đâu?"

"Nhà tôi".

Tôi ngớ người ra, sau đó cẩn thận bước vào trong ngưỡng cửa, nói nhỏ: "Tổ tiên nhà cô là Tiến Sỹ? Vậy thế thì tấm bia trước cổng thôn là hoàng đế ngự giá ban tặng cho tổ tông gia đình cô ư?"

"Ừm". Cô ấy thản nhiên trả lời.

Tôi dụi dụi mắt nhìn lên giếng trời của ngôi nhà cổ "Tiến Sỹ Đệ" này, hai bên là những căn phòng xiêu vẹo đang trực đổ ập xuống, đối diện với cửa chính là một gian sảnh đường cấu trúc mái vòm. Ánh sáng mờ ảo từ mái hiên nhà rớt xuống khiến ngôi nhà cổ này càng trở nên âm u.

Tiểu Chi không vào sảnh đường mà đi vào cánh cửa bên cạnh, tôi bám theo sau, đi vào sân thứ hai trong Tiến Sỹ Đệ. Giếng trời ở đây còn nhỏ hơn, ba mặt đông, tây, bắc đều là dãy cầu hai tầng vây quanh, những lầu gỗ ba mặt đều là mái vòm, có lầu trạm hoa trên cửa sổ và xà nhà làm tôi liên tưởng tới "Nhà ngõ chìm sâu, sâu quá đỗi" của Phùng Diên Tị.

Bỗng nhiên, sau lưng tôi vang lên giọng nói ồm ồm: "Cậu là ai?"

Giọng nói này làm tôi giật bắn mình, tôi lắc lắc lư lư quay đầu lại, chỉ nhìn thấy một bóng người vừa gầy vừa cao đứng trong cửa sổ gỗ đang mở ra.

Tiểu Chi vội vàng nói với ngh đó: "Cha, thầy ấy là thầy giáo đại học của chúng con, đến khảo sát lịch sử và phong tục tập quán của Hoang thôn chúng ta".

Hóa ra là cha của Tiểu Chi, tôi nhẹ cả người. Nhưng cô ấy cũng biết cách nói dối thật đấy, nói ngay tôi là thấy giáo đại học của mình, nhưng tôi cũng chỉ lớn hơn cô ấy vài tuổi thôi mà.

"Hoan nghênh cậu tới Hoang thôn".

Cha của Tiểu Chi đi từ cửa khác ra, tôi lúc này mới nhìn kĩ khuôn mặt ông. Đó là một người đàn ông trung niên cao gầy, khuôn mặt gầy gò tiều tụy, hố mắt trũng sâu xuống. Nhưng da dẻ của ông ấy lại rất trắng, không giống như một người nông dân thông thường, ông ấy hồi trẻ chắc là rất tuấn tú. Ông tới trước mặt tôi mỉm cười nói: "Xin chào. Tôi là giáo viên tiểu học của Hoang thôn, cậu gọi tôi là Âu Dương tiên sinh được rồi. Nếu như không che thì mời cậu ở lại nhà chúng tôi vài hôm, ngôi nhà này chỉ có hai cha con tôi, vẫn cò rất nhiều phòng trống".

Tôi quay lại nhìn Tiểu Chi một cái, lúc này tôi mới biết họ tên của cô ấy: Âu Dương Tiểu Chi.

Màn đêm lạnh giá đã dần dần bao trùm lên Hoang thôn, Âu Dương tiên sinh dẫn chúng tôi tới sảnh trước, bật đèn trên xà nhà, ánh đèn chiếu rọi lên tấm biển trước sảnh đường, trên tấm biển viết ba chữ hàng ngang: "Nhân Ái Đường". Dưới tấm biển là một bức chân dung bằng giấy ống quyển, người đó mặc quan phục triều Minh, chắc là vị tiến sỹ vào năm Gia Tĩnh.

Trong phòng trống hươ trống hoắc, chỉ có trên chính giữa chiếc bàn hình bầu dục là bày biện bữa tối thịnh soạn. Âu Dương tiên sinh lộ ra nụ cười hiền hậu của một người cha, ông nói biết hôm nay Tiểu Chi về nên cố ý chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn. Hoang thôn ở cạnh biển, đương nhiên là nhiều hải sản, rất hợp với khẩu vị của tôi. Âu Dương tiên sinh vốn kiệm lời, lặng lẽ xới cơm. Tôi phát hiện ông ăn rất ít, gần như chẳng mấy động đũa, sắc mặt ông trắng bệch dưới ánh đèn sáng vàng vọt, quả là hình ảnh thầy giáo thanh bần ở thôn quê.

Sau bữa tối, Tiểu Chi dẫn tôi lên căn gác hướng bắc phía sau. Tôi lập cập theo sau cô ấy leo lên những bậc cầu tahng gỗ dốc ngược, giống người mù dò dẫm lên tới căn phòng trên gác hai. Tiểu Chi mò mẫm mãi vẫn chưa bật được đèn điện, cô ấy xin lỗi nói: "Căn phòng này lâu lắm không sử dụng rồi, chắc là đường diện lão hóa rồi, anh đợi tôi một lúc".

Tiểu Chi xuống lầu. Tôi giơ tay ra phía trước khua khoắng thì sờ thấy một dãy cửa sổ bằng gỗ, đến kính cửa sổ cũng không có, chỉ có một lớp giấy bảo vệ mỏng dán trên khung cửa. Tôi một mình đứng trong bóng tối, thông qua khung cửa sổ gỗ có thể nhìn thấy vài ngôi sao – tim tôi càng lúc càng đập nhanh, bất giác giơ tay ra mở cửa sổ.

Cửa sổ vừa được mở ra, tôi liền nhìn ngay thấy một đốm sáng âm u, giống như ma trơi nhấp nháy liên hồi.

"Đừng sợ! Là tôi".

Là tiếng của Tiểu Chi, cô ấy đi theo đốm ánh đó trong phòng, trên tay cầm chiếc đèn dầu. Tôi thở phào một cái: "Cô đừng có dạo tôi chứ".

Cô ấy khẽ cười: "Không phải anh đã từng xuất bản rất nhiều tiểu thuyết kinh dị sao? Sao lại vẫn biết sợ nhỉ?"

"Khủng hoảng khởi nguồn từ vô thức". Mắt tôi đã dần thích nghi với ánh đèn dầu, dưới đốm sáng bập bùng đó, khuôn mặt Tiểu Chi ánh lên màu sắc kỳ dị. Cô ấy còn ôm theo một cuộn chăn dày,s au đó đặt chiếc đèn dầu lên bàn gỗ, khiến tôi gần như có thể nhìn rõ căn phòng này. Căn phòng thực chất rất to, ở giữa còn có một tấm bình phong, phía sau có một chiếc giường ngủ.

Kỳ lạ ở chỗ, trong phòng vốn không có quá nhiều bụi bẩn, xem ra rất sạch sẽ, không giống như lâu rồi không có người ở. Tiểu Chi nói: "Cha tôi thích sạch sẽ, thế nên ông đã quét dọn một lượt mười mấy phòng trống này".

"Mười mấy căn phòng trống? Quả nhiên là "Tiến Sỹ Đệ". Nhưng ngôi nhà to thế này chỉ có hai bố con cô ở không cảm thấy sợ sao?"

Tiểu Chi lặng lẽ đóng cửa sổ lại nói: "Bởi vì gia đình tôi không có thêm bất cứ người họ hàng nào cả".

"Vậy sao cô phải bảo tôi là thầy giáo dây đại học của cô?"

Cô ấy chau mày, đưa chăn vào tay tôi nói: "Anh đã nhìn thấy tấm bia tiết hạnh ngoài cổng thôn rồi chứ? Phong tục của người dân Hoang thôn từ cổ xưa đều rất bảo thủ, nếu như tôi nói thật sẽ dẫn đến điều tiếng. Thế nên, tôi chỉ có thể nói anh là thấy giáo đại học của tôi đến đây để khảo sát lịch sử và phong tục tập quán của Hoang thôn, như vậy cha tôi sẽ không hiểu lầm mối quan hệ của chúng ta".

"À, vậy thì hãy để tôi la2mt hấy giáo của cô vài hôm nhé. Nhưng tôi chỉ hơn cô vài tuổi, cô phải chuyên tâm giúp đỡ tôi đấy".

"Được rồi, tôi ở trên gác phía tây, nếu có việc gì, kêu tôi một tiếng là tôi có thể nghe thấy".

"Tiểu Chi", tôi nhìn vào mắt cô ấy, nhưng ấp a ấp úng mãi không nên lời. "Không có gì, chỉ là rất cảm ơn cô".

"Tôi cũng phải cảm ơn anh, cảm ơn anh cả đường đi đã giúp tôi xách hành lý".

Tôi không nhìn được bật cười: "Hành lý của cô nặng thật, làm tôi mệt gần chết. Không phải cô muốn tìm một cửu vạn miễn phí nên mới đồng ý dẫn tôi tới Hoang thôn chứ?"

Bỗng nhiên, ánh mắt tôi chạm vào tấm bình phòng dưới ánh đèn dầu tù mù, cô thể nhìn lơ mơ vài họa tiết tinh xảo. Tôi vội vàng bưng đèn dầu tiến sát lại tấm bình phong.

Đây là một bức bình phong bốn cánh bằng sơn dầu, cao khoảng hai mét, rộng bốn mét. Khung bình phong được làm bằng gỗ, ở giữa sơn đỏ, tuy năm tháng trôi qua đã khiến nó bị phai màu, nhưng dưới ánh nến vẫn còn tàn lưu chút sắc màu rực rỡ. Bình phong có thể gấp thành bốn cánh, trên mỗi cánh đều vẽ tranh màu, chắc là sản phẩm của đời Thanh trước đây.

"Trời ơi, đây chính là một thứ đồ cổ đấy!" Tôi không kìm nén được thốt lên.

Tôi thật sự không ngờ rằng thứ đồ cổ quý như vậy lại được đặt trong căn phòng trống, còn để người lạ như tôi ở trong đó, quả thật không biết trong "Tiến Sỹ Đệ" này còn cất giấu bao nhiêu báu vật nữa? Tiểu Chi không trả lời, ánh mắt cô ấy có chút kỳ lạ. Tôi không buồn để ý mà tỉ mỉ nhìn tranh trên bình phong, phong cách hơi giống tranh minh họa trong sách cổ, chỉ là niên đại quá xa mà thôi, màu sắc xem ra hơi nhạt. Nhưng khiến người ta kinh ngạc hơn chính là nội dung những bức vẽ trên tấm bình phong này.

Cánh thứ nhất bên trái bình phong là một đôi nam nữ, người phụ nữ đẹp mê hồn, ngồi tựa vào cửa mái nhà tranh, còn người đàn ông khoác hành lý dáng vẻ như sắp phải đi xa, hai người nhìn nhau đầy lưu luyến, xem ra là cảnh đôi vợ chồng lưu luyến li biệt, có chút mùi vị "Rừng phong ai nhuộm đỏ tươi, phải chăng nước mắt của người biệt li".

Chính giữa cánh bình phong thứ hai vẫn là người phụ nữ đó, hình như đang đau buồn khóc lóc, trước mặt cô ấy là một tăng nhân diện mạo kỳ dị. Trên tay tăng nhân có cầm một chiếc sáo trúc đang đưa nó đến trước mặt cô gái. Tôi lắc lắc đầu, nhìn không hiểu bức tranh này.

Trên cánh bình phong thứ ba vẽ cảnh trong phòng, người phụ nữ đang ngồi một mình trên chiếu trúc, tay cầm chiếc sao đưa lên môi, hình như là đang thổi sáo. Và trên xà nhà trong tranh treo một dải lụa trắng dài ba thước, lẽ nào cô ấy muốn treo cổ tự vẫn? Cả bức tranh bao trùm sự thê luong và sát khí khiến người ta nổi da gà.

Cánh bình phong thứ tư vẫn vẽ cảnh trong phòng, giữa phòng là một người đàn ông, bên cạnh anh ta có đặt một chiếc quan tài sơn đỏ! Đáng sợ hơn ở chỗ, nắp quan tài được mở ra. Tay người đàn ông vẫn cầm chiếc sáo vẻ mặt kỳ dị quá đỗi. Nhìn bức tranh này, tay tôi đang cầm đèn pin không khỏi run rẩy, ánh lửa không ngừng phập phùng, vài bóng đen kì dị trên bình phong lay động, dường như người đàn ông trong tranh đang thực sự bước từ trong tấm bình phong ra, tôi lập tức sởn cả tóc gáy, tau chân cuống quýt làm đổ cả chiếc đèn dầu.

Tôi há hốc mồm kinh ngạc: "Tiểu Chi, tấm bình phong này thực sự rất kỳ quái, bốn bức tranh này nghĩa là gì?"

Cô ấy chau mày, do dự hồi lâu mới rầu rĩ nói: "Tấm bình phong này là câu chuyện của Yên Chi".

"Yên Chi là ai?"

Ánh đèn dầu leo lét lại ánh đỏ lên khuôn mặt Tiểu Chi,cô ấy rủ rỉ rù rì kể: "Vào những năm Gia Tĩnh triều Minh, Hoang thôn có một đôi vợ chồng trẻ, người vợ tên là Yên Chi. Hai vợ chồng sống cuộc sống thanh bình sớm tối có nhau, điều đáng tiếc duy nhất là họ không có con. Sự thanh bình chẳng mấy chốc đã bị chiến tranh tàn phá, lúc đó vùng ven biển Chiết Giang chiến tranh liên miên, cướp biển Nhật Bản thường xuyên ẩn hiện, giai đoạn lịch sử này chắc anh cũng biết rồi phải không?"

"Đương nhiên, những năm Gia Tĩnh triều Minh là lúc cướp biển hoành hành nghiêm trọng nhất, và Chiết Giang cụng là trọng điểm mà cướp biển công kích".

"Năm đó, quan triều đình đã đến Hoang thôn để chiêu binh, cưỡng chế chồng Yên Chi nhập ngũ để đi đánh trận ở tỉnh ngoài. Tuy hai vợ chồng Yên Chi vô cùng yêu thương nhau, nhưng trước chiến tranh thì chẳng còn cách nào cả. Người chồng trước khi lên đường đã hẹn ước với Yên Chi: Tết trùng dương ba năm sau, anh ấy nhất định quay trở về cùng cô tương ngộ, nếu như đến lúc đó mà vẫn không gặp được nhau, hai người sẽ cùng nhau tự tử vì tình vào đúng đêm tết trùng dương. Trong những ngày chồng đi xa, Yên Chi luôn thấp thỏm bất an, kìm nén sự cô đơn trong Hoang thôn, một mình với căn phòng trống vắng, khốn khổ chờ chồng quay về. Thời gian dần trôi qua, thoáng cái ba năm đã qua đi, tết trùng dương đã cận kề, còn người chồng phương xa vẫn bặt vô âm tín. Yên Chi ngày ngày đều ra cổng Hoang thôn ngóng chờ nhưng vẫn không thấy chồng trở lại. Vào trước đêm tết trùng dương, cô ấy đã gặp một tăng nhân đi khuất thực ở cổng thôn. Tăng nhân vừa nhìn là đã hiểu thấu tâm can của cô ấy và liền đưa cho cô một chiếc sáo".

"Sáo?" Tôi phát hiện lúc cô ấy kể câu chuyện này, đôi mắt ẩn chứa bóng tối dường như đang ánh lên những tia sáng dị thường.

"Đúng vậy, tăng nhân đã trao cho cô ấy một chiếc sáo rồi dặn dò hãy thổi chiếc sáo này vào đúng đêm tết trùng dương thì chồng cô sẽ trở về. Đêm tết trùng dương, Yên Chi chờ đội trong nhà, cô đã chuẩn bị sẵn một dải lụa dài ba thước, ngộ nhỡ người chồng không trở về thì sẽ tự tử vì tình theo lời nguyện ước. Nửa đêm, người chồng vẫn chưa trở về, cô ấy đành làm theo lời dặn của tăng nhân, thổi chiếc sáo đó lên. Cô ấy đem mọi nỗi tương tư và đau khổ gửi dắm cả vào trong tiếng sáo. Tiếng sáo đêm trùng dương như tiếng khóc thút thít, u sầu bay bổng khắp núi non và bờ biển Hoang thôn. Sau khi tiếng sáo kết thúc, Yên Chi đã chuẩn bị thắt dải lụa trắng ba thước trên xà nhà. Bỗng nhiên, cô ấy nghe thấy tiếng gõ cửa nặng trĩu".

Tim tôi giống như bị cô ấy tóm lấy, lập tức thở hắt ra: "Chồng của Yên Chi trở về rồi?"

"Đúng. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, Yên Chi nhìn thấy người chồng mà mình ngày đêm mong nhớ đang đứng ngoài cửa. Người chồng dáng vẻ phong trần mệt mỏi, thậm chí trên người vẫn còn bộ giáp trụ chưa trút xuống. Cô ấy mừng vui khôn xiết chạy ra cửa đón chồng, giúp anh tháo bỏ bộ quần áo giáp sắt đánh trận, bưng trà nóng cho anh, cô ấy đã gột rửa bụi trần cho chồng bằng sự ấm áp dồn nén ba năm qua. Có lẽ là do vất vả trở về từ nơi xa xôi ngàn dặm, khuôn mặt người chồng trở nên trắng bệch, cơ thể suy nhược, không nói lấy một câu. Yên Chi chỉ có thể dịu dàng hầu hạ chồng ngả lưng. Mấy hôm sau, người chồng nhất mực trốn trong nhà không dám ra ngoài, có lẽ anh ta đã đào tẩu về nhà. Tuy Yên Chi luôn cảm thấy chồng mình có biểu hiện rất lạ, nhưng họ vẫn cùng nhau trải qua vài đêm hạnh phúc".

"Đại đoàn viên rồi?" Tôi bỗng có chút thất vọng.

"Không... vài hôm sau khi người chồng trở về, vào một đêm Yên Chi lại thổi sáo, có lẽ là muốn thổi để cho chồng nghe. Nhưng người chồng vừa nghe thấy tiếng sáo đã lao bắn ra ngoài cửa. Yên Chi đuổi theo sau, nhưng chỉ nhìn thấy một vùng tối đen bên ngoài Hoang thôn, sương khói bao trùm khắp nơi, người chồng đã mất tích trong một rừng cây bị sương khói phủ kín. Yên Chi lúc đó vô cùng ân hận, cô ấy tìm kiếm khắp nơi ba ngày ba đêm nhưng mãi vẫn không thấy tung tích của chồng đâu, anh ta giống như một ảo ảnh bị tiếng sáo trong bóng đêm nuốt chửng vậy. Lại qua mấy hôm sau, vài người trong thôn cũng bị ép gia nhập quân đội cùng chồng Yên Chi trước đây đã trở về rồi, họ nói với cô ấy, chồng cô đã chết trận vào đúng đêm trùng dương mười mấy ngày trước. Yên Chi không tin, nhưng rất nhiều người đã đều tận mắt chứng kiến chồng cô chết. Còn có cả những người biết chuyện kể lại, đêm tết trùng dương đó, chồng cô ngoài sa trường xa xôi ngàn dặm, biết mình không thể thực hiện lời hẹn ước trở về với vợ nên đã cố ý xông lên tuyến đầu trong chiến sự ác liệt. Kết quả là bị loạn tên của cướp biển bắn chết. Anh ấy với danh nghĩa chết trận nhưng thực tế là tự tử vì tình, lấy cái chết để thực hiện lời nguyện ước với vợ".

"Vậy thì người đàn ông trở về nhà vào cái đêm trùng dương đó là ai?"

"Hồn ma". Tiểu Chi chậm rãi thốt ra hai từ đó. "Là hồn ma của chồng Yên Chi, trở về vào đúng đêm tết trùng dương".

"Tôi hiểu rồi, chồng của Yên Chi đã chết trận trong tết trùng dương để hồn mình có thể bay qua vạn núi ngàn sông trở về cố hương, trở về bên người vợ thân yêu của mình. Và khi Yên Chi thổi chiếc sáo của tăng nhân du hành trao cho cô ấy, tiếng sao thần bí đã lan tỏa khắp trời đêm, có thể giúp linh hồn cô quả của người chồng tìm thấy đường về nhà".

Tôi run rẩy trong lạnh giá nói hết câu này, bỗng nhiên cảm thấy câu chuyện này lạng mạn tột đỉnh nhưng cũng khủng khiếp tới tột định.

"Anh sao thế?" Tiểu Chi khẽ hỏi bên tai tôi.

Lúc này tôi mới ý thức được sự thất thần của mình: "Xin lỗi, làm cô sợ hãi. Thế Yên Chi sua đó ra sao?"

Tiểu Chi đang chuẩn bị nói tiếp thì một âm thanh kỳ lạ bỗng từ bên ngoài vọng vào, là tiếng sáo! Nó mang theo giai điệu kỳ dị nào đó, giống như lưỡi dao sắc nhọn rạch nát màn đêm tối đen của Hoang thôn.

Sắc mặt cô ấy cũng lập tức biến đổi, cô tự bụm miệng mình lại rồi ra mở cửa sổ, nhưng trong màn đêm chẳng thấy rõ gì cả. Tôi cũng bị tiếng sao làm dựng cả tóc gáy, lúc nhỏ có học qua thổi sáo, đến nay vẫn biết thổi vài giai điệu, nhưng tiếng sáo đáng sợ thế này thì từ trước đến nay chưa từng nghe thấy.

Tiểu Chi bất giác sát lại gần tôi, tôi thuận tay khoác vai cô ấy. Tiếng sáo hình như đến từ ngọn núi bên ngoài Hoang thôn, chúng tôi không nhận biết được phương hướng, bỗng chốc không biết phải làm thế nào. Yên Chi thì thào: "Không, tôi không thể nói tiếp được nữa, anh nghỉ sớm đi nhé".

Tôi vẫn muốn nói điều gì đó, nhưng thấy khuôn mặt hoảng sợ của Tiểu Chi nên đành không nói thêm gì cả. Tiểu Chi chạy ra khỏi phòng, căn gác sập sệ sắp đổ phát ra chuỗi âm thanh hòa quyện cùng tiếng sáo khiến tim tôi đập thình thịch.

Vài phút sau, tiếng sáo đột nhiên biến mất, ngôi nhà cổ lại phục hồi trạng thái im ắng tĩnh mịch. Lúc này, cả căn gác gỗ chỉ còn lại mỗi mình tôi, câu chuyện kỳ dị trong những bức tranh trên tấm bình phong cổ đang hiện lên trước mặt tôi, không biết người trong bình phong có chạy ra ngoài lúc đêm tối không nữa? Phải chăng thực ra tôi cũng đã từng được nghe kể về kiểu truyện kỳ dị này.

Tôi lấy chăn bông trải lên giường, tức tối chui vào đó. Đây là đêm đầu tiên tôi ở Hoang thôn, thần kinh và cơ thể của tôi đều mệt mỏi cực độ, chẳng mấy chốc đã ngủ thiếp đi...

Sau nửa đêm tôi lại tỉnh dậy, phát hiện toàn thân mình đang run rẩy, mồ hôi hột lấm tấm trên trán. Dự cảm kỳ lạ xâm chiếm đầu óc và tâm trí tôi, nhịp tim thình thịch dường như khiến tôi nức nở. Sao lại thế này? Tôi bò dậy trên chiếc giường gỗ, trong phòng tối om, tĩnh lặng như đã chết.

Tôi mặc quần áo lên, cẩn thận rón rén bước ra khỏi phòng. Ngoài cửa phòng là dãy hành lang được làm từ gỗ, đêm đông lạnh giá mông lung, tôi chỉ có thể lờ mờ thấy viền bao quanh của "Tiến Sỹ Đệ" giống như một ngôi mộ cổ đại.

Bỗng nhiên, tôi cảm thấy một luồng hơi thở kì dị, tôi run rẩy quay đầu lại, dồn mắt về phía căn phòng bên cạnh.

Ánh nến xuyên qua cửa sổ.

Trời ơi, tôi suýt nữa hét lên, đó là căn phòng đóng cửa để không, sao nửa đêm lại sáng ánh nến như vậy? Tôi vẫn không kìm chế được mình, trước tiên là mút ướt ngón tay, khẽ khàng chọc thủng một lỗ nhỏ trên cửa sổ giấy.

Khuôn mặt tôi từ từ áp sát cửa sổ, dán mắt lên chiếc lỗ nhỏ đó. Kích cỡ chiếc lỗ vừa vặn để tôi có thể nhìn thấy cảnh tượng trong phòng. Trước bàn trang điểm kiểu dáng tao nhã có thắp một ngọn nến, ánh nến mịt mờ phập phòng soi sáng một bóng dáng trước bàn trang điểm.

Là một phụ nữ mặc áo trắng, cô ấy đang quay lưng lại phía tôi, tuy trước bàn trang điểm có tấm gương nhưng đã bị đầu cô ấy che mất, bởi vậy tôi không có cách nào để nhìn thấy mặt cô ấy. Từ hình thể sau lưng có thể thấy đó là một cô gái trẻ.

Tay cô ấy cầm một chiếc lược gỗ màu nâu, đang từ từ chải tóc. Tóc cô ấy vừa dài vừa đen, lấp lánh dưới ánh nến. Cô ấy hơi nghiên người, tay phải cầm lược, tay trái đỡ tóc giống như thác nước đang đổ lên sườn. Cô ấy cứ ngồi như vậy trước bàn trang điểm, hình như tất cả tâm trí đều tập trung vào chải và chải...

Trong đêm đông lạnh giá của ngôi nhà cổ "Tiến Sỹ Đệ" này, qua lỗ nhỏ trên cửa sổ giấy tôi đã nhìn thấy cảnh tượng khiến người ta không thể hiểu nổi, giống như đang nhìn thấy cảnh tượng của một thời đại khác.

Tôi thật sự rất sợ hãi nhưng nín nhịn để không hét lên. Tôi khẽ khàng lui lại một bước thì mới phát hiện chân mình đã mềm nhũn ra. Tôi lập tức về phòng mình, quệt mồ hôi trên tán, nhưng vẫn không dám thót lên, bởi vì cô gái đó ở ngay sát vách phòng tôi.

Nghĩ tới đây tôi lại không dám ngủ nữa, tôi khẽ khàng cuộn tròn trên giường, tuy mắt nhắm nghiền nhưng đầu óc vẫn không ngừng hiện lên cảnh tượng đó.

Cô ấy là ai?

NGOẠI TRUYỆN - 3

Sáng hôm sau, trong tiền sảnh ngôi nhà cổ, Tiểu Chi đang đợi tôi ăn sáng.

Tôi khẽ nói: "Hoang thôn đúng là một nơi độc nhất vô nhị, vừa khiến người ta tò mò, vừa khiến người ta sợ hãi".

"Đây là cũng là nguyên nhân mà tôi thích tiểu thuyết của anh".

"Tiểu Chi, tiếng sáo đêm qua rút cuộc là thế nào? Sao lại đáng sợ như vậy? Lẽ nào lo sợ tiếng sáo sẽ dẫn hồn ma quỷ về sao?"

Nhưng tôi vẫn chưa dám kể cho Tiểu Chi nghe về người con gái chải đầu sau nửa đêm mà tôi nhìn thấy.

"Suỵt, nói nhỏ chút!" nhìn điệu bộ của Tiểu Chi như đang sắp bịt miệng tôi lại, cô ấy ngẩng đầu nhìn lên bức chân dung treo chính giữa phòng khách, người đàn ông mặc quan phục triều Minh đang lạnh lùng nhìn chúng tôi.

"Cô sợ những gì chúng ta nói bị ông ấy nghe thấy?"

Tiểu Chi không trả lời thẳng, cô ấy hình như rất khiếp sợ người trong bức tranh: "Tôi đương nhiên không tin ma quỷ trong truyền thuyết. Nhưng ở đây là Hoang thôn, khác với những nơi khác".

"Hoang thôn có ma sao?"

"Tôi không phải ý đấy. Nhưng Hoang thôn có tập tục riêng của mình, anh không cần quan tâm nhiều, nhanh chóng ăn sáng đi".

Buổi sáng, tôi muốn đi lòng vòng gặp gỡ những thôn dân nhưng bị cô ấy dứt khoát ngăn lại. Cô ấy dẫn tôi ra khỏi thôn bằng một con đường nhỏ, không ai phát hiện ra chúng tôi. Cả một buổi sáng, chúng tôi đều đi dạo trên những ngọn núi hoang vu không một bóng người gần đó.

Sau bữa tối, tôi nghe thấy Tiểu Chi và cha cô ấy nói chuyện trong phòng, họ hình như không vui vẻ lắm. Âu Dương tiên sinh từ phòng Tiểu Chi đi ra, dáng ông bước đi trong đêm tối thật giống một xác chết.

Tôi lặng lẽ lên cầu thang của Tiểu Chi, đẩy cửa phòng cô ấy.

"Ngại quá, ban nãy tôi vừa nghe được mấy câu". Tôi lúc đó có chút bối rối. Phòng cô ấy rất sạch sẽ, trên tường còn quét vôi, còn có cả ti vi và máy vi tính, chỉ có vài cánh cửa sổ khiến người ta nhớ tới đây là một ngôi nhà cổ, "Xảy ra chuyện gì? Có phải cha cô cảm thấy tôi đã quấy nhiễu cuộc sống yên bình của hai cha con cô không?"

"Không, không phải". Tiểu Chi hình như có chút căng thẳng, bất giác lùi về phía bàn học.

Lúc này tôi mới chú ý tối trên bàn có đặt một khung ảnh, bên trong có tấm ảnh đen trắng của Tiểu Chi, cô ấy trong ảnh thật hấp dẫn, chỉ có ánh mắt là phảng phất buồn. Nhưng trong bức ảnh này lại có một cảm giác rất khó nói thành lời, tôi không kìm chế được hỏi: "Tiểu Chi, bức ảnh này của cô chụp lúc nào thế?"

Cô ấy không lập tức trả lời, ngập ngừng một lúc mới rầu rĩ nói: "Người trong bức ánh này chết từ lâu rồi".

"Cái gì? Cô đừng có dọa tôi chứ". Sống lưng tôi lạnh toát.

"Đây là ảnh của mẹ tôi".

Căn phòng trĩu nặng hồi lâu, tôi thực sự không ngờ rằng hai mẹ con cô ấy lại giống nhau đến vậy.

"Lúc tôi còn rất nhỏ, mẹ tôi đã lâm bệnh rồi qua đời, bà đã mất trong căn gác mà anh đang ở. Một mình cha nuôi tôi khôn lớn, tôi chỉ có thể nhìn thấy bóng dáng mẹ qua ảnh". Tiểu Chi buồn bã trả lời, ánh mắt u sầu của cô ấy giống như đúc người trong ảnh.

"Xin lỗi". Tôi có chút áy náy nhìn cô ấy, hít một hơi thật sâu nói, "Cha cô chắc rất yêu cô".

Tiểu Chi không trả lời, không khí trong phòng càng lúc càng bối rối, tôi đành vội vã rời khỏi đây.

Trở về phòng mình, tôi không dám ngủ, chỉ có thể thắp ngọn đèn dầu, khoác áo khoác cuộn tròn trên giường. Dưới ngọn đèn dầu cô độc, tôi hoảng hốt thức trắng đêm nay.

Bỗng nhiên, tiếng sao từ nơi xa xăm truyền đến tai tôi. Tôi nhảy thót lên như bị kim châm, lắc đầu lia lịa, hy vọng rằng tiếng sáo này là ảo giác.

Tiếng sáo vẫn đang tiếp tục. Tôi không thể kìm nén được sự kích động của mình bèn xách đèn dầu lặng lẽ ra khỏi "Tiến Sỹ Đệ".

Hoang thôn nửa đêm mang một bầu không khí chết chóc, chỉ có tiếng sáo trên núi đang du dương bay bổng. Tôi ra khỏi cỗng thôn, đứng dưới tấm bia tiết hạnh nhìn ngó xung quanh, những dẫy núi liên miên trong bóng đêm giống như một tòa lâu đài nghiêm ngặt. Tôi nhằm thẳng vào đỉnh núi cao nhất, xách đèn dầu chạy về hướng đó. Quả nhiên, tiếng sáo kì dị càng lúc càng rõ, xem ra tôi đã tìm đúng hướng rồi.

Trăng lên, ánh trăng lạnh lẽo đang đâm thủng mây đen trong bóng đêm, rắc lên núi hoang trơ trọi.

Bỗng nhiên, tôi cảm thấy hình như tiếng sáo vang lên từ phía sau lưng, tôi vội vàng nhìn lên khe núi đằng sau, chỉ thấy dưới ánh trăng bàng bạc có một bóng đen đang đứng, còn tiếng sáo thê lương thì đột ngột im bặt.

Tôi xách đèn dầu chạy về phía bóng đen đó. Bóng đen không hề chuyển động, đứng im tại chỗ như một cái cây. Tôi giơ đèn dầu lên soi, dưới ánh đèn mờ ảo, khuôn mặt tiều tụy hốc hác hiện ra.

"Âu Dương tiên sinh?"

Tôi kêu lên kinh ngạc, bóng đen này hóa ra là cha Tiểu Chi! Trên tay ông ấy đang cầm một chiếc sáo.

Âu Dương tiên sinh theo phản xạ lấy tay che mặt, miệng lầm rầm nói: "Sao cậu lại tới đây?"

"Đây... đây là thế nào?" Trên đỉnh núi cao cao trong bóng đêm, ánh trăng âm u cùng ánh đèn dầu leo lét rọi vào mắt Âu Dương tiên sinh, tôi hoảng hốt nói: "Tiếng sao ban nãy là do bác thổi sao?"

"Đúng vậy, tôi là thầy giáo nhà quê, sức khỏe từ trước tới nay không tốt lắm, mấy hôm nay tôi toàn mất ngủ". Âu Dương tiên sinh thở dài một tiếng, biểu hiện của ông đã dần bình tĩnh lại, "Do không ngủ được, nên tôi mới lên núi thổi sáo, như vậy có thể khiến mình thư thái hơn".

"Cháu hiểu rồi. Nhưng cháu cảm thấy chiếc sáo này của bác rất đặc biệt".

Âu Dương tiên sinh đưa chiếc sáo vào tay tôi. Đầu ngón tay tôi lập tức cảm thấy lạnh buốt, run bắn lên một cách khó hiểu. Mượn ánh sáng đèn dầu, tôi nhìn rõ chiếc sáo này. Đây là một chiếc sáo kiểu dáng truyền thống, dài khoảng bốn mươi phân, thanh sáo được quét sơn nâu, giữa lỗ sáo có treo dây màu hồng tím, trên màng lỗ dán một lớp màng mỏng như cánh ve.

"Có lẽ cậu không tin rằng, chiếc sáo này đã có mấy trăm năm lịch sử rồi".

"Mấy trăm năm?"

"Tiểu Chi đã kể cho cậu nghe về truyền thuyết Yên Chi rồi chứ".

Tôi gật gật đầu, xem ra Tiểu Chi và cha cô ấy đều không vui, đại khaci1 chắc là vì chuyện này rồi.

"Trong truyền thuyết Yên Chi, có một tăng nhân hành khất tặng cô ấy một chiếc sáo". Âu Dương tiên sinh chỉ vào chiếc sáo trên tay tôi nói: "Chính là cái này".

Tay phải tôi đang cầm sáo lập tức lạnh ngắt.

"Cậu nhất định chưa được biết kết cục của truyền thuyết Yên Chi đúng không?" Âu Dương tiên sinh lắc lắc đầu nói, "Yên Chi trong đêm tết trùng dương đã thổi chiếc sáo này, tương ngộ với linh hồn chồng, cùng nhau trải qua mấy đêm, cũng chính là chồng ma mà người già chúng tôi thường gọi. Sau khi Yên Chi biết được sự thật chồng mình đã chết, cô ấy đau khổ vô cùng, mấy lần định tự sát nhưng đều sống lại một cách kỳ lạ. Mãi tới ba tháng sau, cô ấy phát hiện mình đã có thai".

"Chồng cô ấy không phải đã chết rồi sao? Lẽ nào Yên Chi mang thai của ma?"

Âu Dương tiên sinh thần sắc nghiêm nghị gật đầu: "Không sai, đây là một kỳ tích, đứa trẻ mà cô ấy mang trong mình thực ra là hạt giống mà linh hồn chồng cô ấy chết ngoài sa trường trở về gieo hạt, đây là do ông trời có mắt nên không để cậu ấy bị tuyệt tự. Khi bụng Yên Chi to dần lên mỗi ngày, người dân trong thôn bắt đầu nghi ngờ cô ấy vụng trộm vượt rào, họ dùng những lời lẽ ác độc sỉ nhục Yên Chi, cho rằng Yên Chi mang thai tạp chùng, thậm chí còn có cả những tên lang thang tới bắt nạt cô ấy. Nhưng Yên Chi kiên quyết bảo vệ sự minh bạch của mình, nhất mực giữ gìn tiết hạnh với chồng. Để bảo vệ đứa con trong bụng, Yên Chi đã chịu đựng biết bao khổ hạnh, mang thai mười tháng, rút cuộc cũng sinh ra một đứa bé trai".

"Trời ơi, câu chuyện này thật là giống tiểu thuyết 'Hồng tự' của Hoắc Tang".

Trong đêm đông lạnh giá, nghe câu chuyện thê lương này, tôi bất giác nhớ tới Hải Ti Đặc trong "Hồng tự", còn cả chữ A màu đỏ trước ngực cô ấy. Hải Ti Đặc thà chết cũng không chịu nói ra tên người đàn ông đó, cô ấy coi con gái như thiên sứ mà thiên chúa ban tặng cho mình, bởi vậy cô ấy chấp nhận chịu đựng mọi đau khổ. Vậy thì Yên Chi của Hoang thôn mấy trăm năm trước thì sao? Cô ấy chính là "Hồng tự" phiên bản Trung Quốc? Hay là cô ấy thực sự đã mang thai ma mà chồng để lại?

"Kể từ đó, hai mẹ con Yên Chi đã phải chịu đựng biết bao sự kỳ thị và sỉ nhục, cô ấy một mình nuôi con khôn lớn, đưa con trai đến nhà thầy giáo học. Mười mấy năm sau, Yên Chi rút cuộc lao lực mà chết, nhưng cont rai cô ấy đã thi đỗ khoa cử, từ tú tài tới cử nhân sau đó là tiến sỹ, trở thành môn sinh thiên tử bảng vàng đề danh. Sau này, sự tích bà mẹ Yên Chi của ông truyền tới tai hoàng đế, hoàng đế rất cảm động trước câu chuyện này nên liền ngự giá ban tặng tấm bia tiết hạnh này, để biểu dương đức hạnh của Yên Chi".

Thật không ngờ câu chuyện Yên Chi lại có kết cục như vậy. Tôi cúi đầu nhìn Hoang thôn dưới núi: "Hóa ra là vậy, vậy thì tấm bia tiết hạnh ở cổng thôn bây giờ là dành tặng Yên Chi? 'Tiến Sỹ Đệ' cũng là do con trai cô ấy xây dựng nên? Bác và Tiểu Chi nữa đều là hậu duệ của Yên Chi?"

"Không sai. Chiếc sáo này chính là tổ tiên nhà chúng tôi truyền lại".

Tôi nhìn chiếc sáo trên tay, từ nay trở đi không dám chạm vào nó nữa, lập tức đưa lại vào tay Âu Dương tiên sinh. Tôi hỏi thăm dò: "Vậy sự tích Yên Chi rút cuộc là truyền thuyết hay là thực?"

"Không ai rõ, nhưng mấy trăm năm nay người dân Hoang thôn đều tin đó là thật, ít nhất là chiếc sáo này là thật".

Tôi thẫn thờ nhìn mặt Âu Dương tiên sinh, nếu như câu chuyện của Yên Chi là thật, vậy thì Âu Dương tiên sinh và cả Tiểu Chi trước mặt tôi nữa không phải là hậu duệ của chồng ma sao? Lẽ nào gia tộc Âu Dương sống trong Tiến Sỹ Đệ là một gia đình ma? Tôi bất giác lùi lại hai bước, trong đầu hiện lên truyền thuyết gia tộc ma hút máu người ở Châu Âu.

Mặt trăng chầm chậm lặn xuống, một cơn gió biển mang theo hơi lạnh thổi tới, tôi đứng trên đỉnh dốc bắt đầu run cầm cập. Tôi xách đèn dầu xuống dốc núi, khi đi qua chân tấm bia đá tiết hạnh, tim bỗng run rẫy lạ thường.

Trở về Tiến Sỹ Đệ, tôi chỉ cảm thấy không khí của ngôi nhà này càng thêm u ám, càng ngày càng giống lâu đài của bá tước Dracula.

Bỗng nhiên, trong sân tối đen, một bóng trắng lướt qua. Cái bóng đó chuyển động giống hệt ma quỷ khiến tôi rùng mình. Trả qua sự thử thách ban nãy, gan tôi cũng bắt đầu to lên, tuy tất cả mọi thứ trong ngôi nhà cổ đều thần bí như vậy, khủng khiếp như vậy, nhưng càng như thế lại càng kích thích trí tò mò của tôi. Tôi lập tức chạy về phía cái bóng trắng, dương đèn dầu soi về phía trước.

Hình như là một chiếc áo ngủ màu trắng, phía trên xõa mái tóc đen dài, đó là một cô gái trẻ. Ánh sáng đèn lờ mờ chiếu lên người cô ấy, chính là cô ta, cô gái chải tóc ở cạnh phòng tôi nửa đêm hôm qua. Cô ấy hình như đang rất sợ hãi, chạy lên cầu thang căn gác bên cạnh.

Tim tôi càng lúc càng đập nhanh, bám chặt theo sau cô ấy, rút cuộc đã tóm được tay cô ta trên hành lang gác hai. Nhưng tay tôi lập tức buông ra giống như bị điện giật, bởi vì cánh tay cô ấy lạnh toát, khiến tôi nổi cả da gà. Nhưng cô ấy vẫn không dừng lại, một cơn gió lạnh đột ngột thổi tới, mái tóc dài đen láy tuyệt đẹp bay bay trong gió.

"Cô là ai?"

Tôi lập cà lập cập khẽ hỏi. Cô ấy từ từ quay đầu lại, khuôn mặt trắng bệch hiện lên dưới ánh đèn dầu – Tiểu Chi!

Trời ơi, tôi không ngờ tới hóa ra lại là Tiểu Chi. Mặt cô ấy trắng bệch, môi hơi tím tái, rõ ràng là bị gió lạnh phương bắc làm cho lạnh toát, hóa ra trên người cô ấy chỉ khoác một chiếc áo ngủ mà thôi. Tôi lập tức cởi áo khoác trên người ra, khoác lên người cô ấy. Tôi ôm chặt lấy vai cô ấy nói: "Cô sao thế? Nửa đêm mặc áo ngủ chạy ra đây, trời lanht thế này cẩn thận bị cảm lạnh".

Đôi mắt vô thần của cô ấy nhìn tôi, hoang mang lắc đầu. Tôi vuốt tóc cô ấy, có chút xót xa nói: "Cô thử sờ người cô xem, toàn thân lạnh toát cả rồi, hà cớ gì chứ?"

Nhưng Tiểu Chi vẫn không nói, biểu hiện càng có chút kỳ dị và căng thẳng, cô ấy đột nhiên giơ tay sờ lên trán và mũi của tôi, bàn tay lạnh buốt đó khiến tôi cảm thấy run sợ.

Tôi lắc lắc vai cô ấy nói: "Rút cuộc xảy ra chuyện gì? Tôi không muốn cô bị xâm hại".

Tiểu Chi lập tức sợ hãi trở lại, giãy khỏi lòng tôi, giống như một con thú hoang lao xuống cầu thang. Tôi bám sát theo cô ấy, trong lúc chạy xuống cầu thang tôi bị hụt chân ngã sóng soài.

Lúc tôi đang lồm cồm bò dậy thì Tiểu Chi đã mất hút rồi, chỉ còn lại áo khoác của tôi rớt trên mặt đất. Tôi nhìn lên phòng cô ấy, đèn đã tắt rồi.

Trở về phòng mình, tôi mặc nguyên quần áo cuộn tròn trên giường, mắt nhắm mắt mở nhìn tầm bình phong, trong đầu nhớ tới biểu hiện kỳ quái của Tiểu Chi ban nãy. Vậy xem ra, cô gái chải đầu sát vách phòng tôi đêm qua chính là cô ấy, nhưng tại sao cô ấy lại chạy ra ngoài lúc nửa đêm?

Trước mắt tôi lại hiện lên đôi mắt vô thần của Tiểu Chi, thần trí của cô ấy ban nãy hình như không được minh mẫn, bộ dạng giống như đang mơ mơ màng màng vẫn chưa tỉnh ngủ vậy. Tôi bỗng nhớ tới nội dung trong một bộ tiểu thuyết của mình, lẽ nào Tiểu Chi đang mộng du?

Đúng, chỉ có khả năng này. Trên mặt Tiểu Chi đầy vẻ hoang mang, cho dù mắt cô ấy mở to nhưng bỗ não vẫn đang trong trạng thái mơ ngủ. Tất cả những điều này đều phù hợp với đặc trưng của mộng du. Bản thân cô ấy vốn không có nhận thức, chỉ là cô ấy mơ thấy một giấc mơ, còn cơ thể cô ấy giống như đang nằm mơ bước ra ngoài.

Tôi thở một hơi dài, không ngờ Tiểu Chi lại có tật mộng du, có lẽ bản thân cô ấy cũng không biết. Hoang thôn đúng là một nơi khiến người ta phát điên, tôi thực sự rất mệt mỏi, từ từ nhắm mắt lại.

Đọc tiếp: Quán trọ hoang thôn - Trang 10
Home » Truyện » Truyện Ma » Quán trọ hoang thôn
↑ Trên cùng
Trang chủ
Copyright © Thich123.net
Liên kết © Uhm123.net - HIM18.COM