The Soda Pop

Các bạn truy cập vào HIM18.COM để đọc truyện MỚI nha. Mong các bạn ủng hộ website mới này!

Ring - Vòng tròn ác nghiệt - phần 3

Đã một tháng rồi Shizu, vợ Asakawa, mới gặp lại cha mẹ. Kể từ sau ngày đứa cháu ngoại Tomoko chết đi, cứ đến ngày nghỉ hai ông bà lại từ Ashikaga lên Tokyo động viên con gái. Mãi hôm nay Shizu mới biết việc đó. Lòng cô đau nhói khi nhìn thấy cha mẹ già với nỗi buồn khắc sâu trên gương mặt tiều tụy. Trước chuyện này, hai ông bà có ba đứa cháu: Tomoko, con gái của người chị cả Yoshimi; Keinichi, con trai của người chị thứ Kazuko; và Yoko, con gái của vợ chồng Asakawa. Ba cô con gái, mỗi người sinh cho ông bà một đứa cháu thật ra không phải là nhiều. Vì là đứa cháu đầu tiên nên mỗi lần gặp Tomoko, hai ông bà lại vui cười đến nhăn nheo cả mặt và chiều cháu hết mức. Nhìn sự buồn rầu khôn tả ấy, cô không biết nỗi đau của vợ chồng anh chị với của cha mẹ, nỗi đau nào lớn hơn.

... Một đứa cháu lại có ý nghĩa lớn đến vậy ư?

Năm nay vừa bước sang tuổi ba mươi, Shizu cố gắng thấu hiểu nỗi đau của người chị bằng cách thử đặt mình vào hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, Yoko mới có một tuổi rưỡi, không thể đem so sánh với Tomoko đã gần mười bảy tuổi. Shizu không thể hình dung được, tình yêu sẽ lớn lên như thế nào theo năm tháng.

Đã quá ba giờ chiều, cha mẹ Shizu chuẩn bị trở về Ashikaga.

Shizu rất lấy làm lạ. Một ông chồng cứ mở miệng ra là than bận sao bỗng nhiên lại rủ vợ đến thăm nhà chị gái? Hôm tổ chức lễ tang, chồng cô còn chẳng thể tham dự vì phải viết bài cho kịp hạn nộp. Hơn nữa, đã sắp đến giờ chuẩn bị bữa tối rồi mà chẳng buồn ra về. Chồng cô mới gặp Tomoko một đôi lần, chắc chắn chưa bao giờ nói chuyện thân mật với nhau, vậy thì không thể nào lại bịn rịn thương tiếc đến nỗi khó rời xa như vậy.

- Anh này, mình chuẩn bị về thôi...

Shizu vỗ nhẹ đầu gối và nói nhỏ vào tai Asakawa.

- Yoko có vẻ buồn ngủ rồi đấy. Hay là nhờ anh chị để nó ngủ ở đây một lúc.

Vợ chồng Asakawa mang con gái đi theo. Bình thường thì giờ này là khoảng thời gian ngủ trưa của cô bé. Quả thực là mí mắt của Yoko đã sắp nhíu lại rồi. Thế nhưng nếu để con bé ngủ ở đây, vợ chồng cô sẽ phải lưu lại căn nhà này thêm hai tiếng nữa. Cô không biết phải nói gì trong hai tiếng ấy với vợ chồng người chị vừa mất đi đứa con gái độc nhất.

- Để nó ngủ trong tàu điện cũng được chứ sao? – Shizu hạ thấp giọng.

- Lên tàu nó quấy lắm, lần trước phải khổ với nó rồi, anh chịu thôi.

Mỗi lần buồn ngủ ở chỗ đông người là Yoko lại quấy khóc không sao dỗ dành được. Cô bé vùng vẫy chân tay, la hét ầm ĩ khiến vợ chồng gã rất khó xử. Cách tốt nhất là nựng khéo cho cô bé ngủ, chứ mà nạt nộ thì chẳng khác nào đổ dầu vào lửa. Những lúc ấy, ánh mắt của mọi người xung quanh luôn khiến Asakawa mất bình tĩnh, gã nín lặng với bộ mặt giận dữ như thể kẻ bị quấy rầy nhiều nhất chính là bố mẹ con bé vậy. Bởi Asakawa thấy nghẹt thở vì những tia nhìn đầy trách móc của các hành khách khác. Còn Shizu, vốn rất yếu đuối, cũng chẳng dám nhìn khuôn mặt chồng đang run lên.

- Anh đã nói thế thì thôi...

- Vậy thì nhờ anh chị ấy cho nó ngủ trưa trên tầng hai một lát.

Yoko đang ngủ lơ mơ trong lòng mẹ.

- Để anh lên đặt nó.

Asakawa vừa vuốt má con gái bằng mu bàn tay vừa nói. Là một kẻ hiếm khi chăm sóc trẻ nhỏ, lời nói ấy phát ra từ miệng Asakawa có âm hưởng gì đó rất lạ. Hay gã đã thay đổi tâm tính sau khi nhìn thấy nỗi đau của một người mẹ mất con?

- Hôm nay anh sao thế... Chả bình thường chút nào.

- Không sao, nó sẽ ngủ ngay thôi, đưa đây cho anh.

Shizu truyền con gái cho chồng.

- Giá mà hôm nào cũng được thế này thì tốt.

Lúc đưa từ lòng mẹ sang tay bố, Yoko hơi nhíu mày, nhưng chưa kịp khóc thì cô bé đã chìm ngay vào giấc ngủ. Asakawa ẵm con lên tầng hai. Tầng hai gồm có hai căn phòng kiểu Nhật và một căn phòng kiểu Âu mà Tomoko đã ở lúc trước. Gã khẽ đặt Yoko lên tấm nệm trong căn phòng kiểu Nhật quay ra hướng Nam. Chẳng cần phải nằm cạnh con bé, nó đã chìm sâu vào giấc ngủ với tiếng thở nhẹ nhàng.

Asakawa khẽ rời khỏi căn phòng kiểu Nhật, gã vừa nghe ngóng động tĩnh bên dưới vừa bước vào phòng Tomoko. Gã thấy hơi có lỗi về hành vi xâm phạm cõi riêng tư của người quá cố. Bình thường gã đâu có vậy. Nhưng vì một mục đích lớn lao, và để vạch mặt cái ác, gã không còn cách nào khác. Gã thấy hổ thẹn về gã, kẻ đang định hợp thức hoá hành động của mình bằng những lý do này nọ. Gã đang biện hộ: chú không có ý định viết báo, chú chỉ đang đi tìm những thứ chỉ cho chú biết địa điểm và thời gian mà bốn đứa cháu đã cùng có mặt, tha lỗi cho chú nhé.

Asakawa mở ngăn kéo bàn. Những thứ văn phòng phẩm mà một nữ sinh trung học thường dùng đang nằm đó ngăn nắp. Có ba bức ảnh, một chiếc hộp nhỏ, một phong thư, một quyển sổ ghi chép, và bộ kim chỉ. Liệu bố mẹ con bé có động vào chúng sau khi con bé chết? Không, không có vẻ gì là như thế. Con bé chắc là một người thích sạch sẽ. Giá kể mà tìm được một thứ gì đó giống như nhật ký là nhanh nhất. Ngày x, tháng x, ở xxx, mình đã cùng với Tsuji Haruko, Nomi Takehiko, Iwata Shuichi... Giá mà tìm thấy một vài dòng ghi chép như thế. Asakawa nhanh chóng lật giở những cuốn vở viết lấy từ giá sách. Ở tít trong hốc ngăn kéo gã tìm thấy một quyển nhật ký trông rất nữ tính, nhưng chỉ có mấy trang được viết gọi là, hơn nữa ngày tháng ghi trên đó cách nay đã khá lâu.

Trong chiếc kệ đặt cạnh bàn không có sách, thay vào đấy là một cái tủ trang điểm be bé với hoạ tiết hình hoa màu đỏ. Gã rút ngăn kéo. Rất nhiều đồ trang sức rẻ tiền. Dễ thấy con bé hay làm mất đồ vì chẳng còn mấy đôi hoa tai đủ bộ. Trên chiếc lược bỏ túi còn vương vài sợi tóc.

Lúc gã mở chiếc tủ đựng quần áo được bắt chặt vào tường, một mùi nữ sinh trung học xông lên mũi. Những tấm áo liền váy và váy ngắn có hoa văn nhiều màu ken dày trên mắc. Bố mẹ người đã mất chưa biết phải xử lý ra sao với những bộ quần áo còn vương mùi cô con gái độc nhất. Asakawa lắng tai nghe động tĩnh bên dưới. Rủi mà bị bắt gặp ở đây thì không biết vợ chồng người chị sẽ nghĩ gì về gã. Không có tiếng động. Dường như vợ gã và vợ chồng người chị đang mải chuyện. Asakawa lục tìm từng chiếc túi. Khăn tay, cuống vé xem phim, giấy gói kẹo cao su. Gã sờ thấy băng vệ sinh và ví đựng vé tháng trong cái sắc. Gã nhòm vào trong ví. Một vé tháng đi tuyến Yamate-Tsurumi, một thẻ học sinh, và một thẻ hội viên. Có tên người trên tấm thẻ. Nonoyama XX. Hừm, hai chữ sau đọc là gì nhỉ? Yuki hay Yuuki? Gã không thể đoán được đó là tên đàn ông hay đàn bà. Tại sao lại có một tấm thẻ mang tên người khác ở chỗ này? Có tiếng bước chân đi lên cầu thang. Asakawa cất tấm thẻ vào túi, đút trả chiếc vé vào ví rồi đóng tủ lại. Gã vừa ra đến hàng lang thì cũng là lúc Yoshimi lên đến nơi.

- Tầng hai có nhà vệ sinh không chị?

Asakawa làm ra vẻ như đang ngó nghiêng tìm kiếm, tuy hơi thái quá.

- Ở cuối hàng lang ấy chú ạ.

Người chị không hề tỏ ý nghi ngờ.

- Yoko ngủ ngoan không?

- Dạ, cháu ngủ rồi. Làm phiền anh chị quá.

- Chú nói gì thế.

Người chị vợ khẽ cúi đầu, áp tay lên đai tóc rồi bước vào căn phòng kiểu Nhật.

Vào tới toilet, Asakawa lấy tấm thẻ ra xem. Thẻ Hội viên Câu lạc bộ Pacific Resort. Đấy là tên của tấm thẻ. Phía dưới là họ tên, số hiệu hội viên của Nonoyama XX, và ngày hết hạn. Gã lật mặt sau. Có năm mục cần lưu ý, tên và địa chỉ công ty. Công ty cổ phần Pacific Resort, 3-5 Kojimachi, quận Chiyoda, Tokyo, Tel (03) 261-4922. Nếu tấm thẻ này không phải là đồ nhặt được hay đánh cắp của ai thì có lẽ Tomoko đã mượn nó từ một nhân vật có cái tên Nonoyama. Để làm gì? Tất nhiên là để được sử dụng Khu nghỉ dưỡng Pacific Resort rồi. Nhưng khu nghỉ dưỡng đó ở đâu và Tomoko đã sử dụng nó vào thời gian nào?

Không thể dùng điện thoại của nhà chị vợ, Asakawa viện cớ đi mua thuốc rồi chạy ra bốt điện thoại công cộng trước nhà. Gã quay số.

- Vâng, Pacific Resort xin nghe. - Giọng một cô gái trẻ.

- Xin lỗi, cô có thể làm ơn cho tôi biết những khu nghỉ dưỡng chấp nhận thẻ hội viên của công ty được không?

Vẫn chưa thấy câu trả lời của cô gái. Có lẽ số lượng những khu nghỉ dưỡng như thế nhiều quá nên không thể giải đáp hết bằng miệng.

- À, như thế này đi, cho tôi hỏi những khu có thể nghỉ lại một đêm nếu đi từ Tokyo...

Asakawa nói thêm. Vì nếu cả bốn đứa trẻ đều cùng vắng nhà hai hoặc ba đêm liền thì chắc chắn người lớn sẽ để mắt tới. Gã không phát hiện thấy gì trong suốt cuộc điều tra vừa rồi hẳn là vì chúng đã đến một nơi mà chỉ cần ngủ lại một đêm. Bởi nếu chỉ một đêm, chúng có thể nói dối bố mẹ là tới ngủ ở nhà bạn mà không bị lộ.

- Thưa quý khách, nếu vậy quý khách có thể tới tổ hợp nghỉ dưỡng Pacific Land của chúng tôi ở Nam Hakone.

Cô gái trả lời ngắn gọn.

- Cụ thể là công ty có những dịch vụ giải trí gì?

- Vâng, chúng tôi có sân tennis, sân goft, khu thể thao ngoài trời và cả bể bơi nữa ạ.

- Thế còn chỗ nghỉ?

- Vâng, chúng tôi có khách sạn và khu biệt thự gỗ cho thuê Villa Log Cabin. Chúng tôi sẽ gửi thông tin chi tiết tới quý khách nếu quý khách quan tâm.

- Được như thế thì tốt quá.

Asakawa đóng vai một vị khách, bằng cách ấy gã có thể moi thông tin một cách dễ dàng.

- Thế người bình thường có thể thuê khách sạn hoặc biệt thự ở đấy được không?

- Dạ, được ạ. Tuy nhiên chúng tôi sẽ tính tiền phòng theo mức giá không ưu đãi.

- Vậy à. Thôi được, vậy cô cho tôi xin số điện thoại ở đó đi, tôi sẽ thử tới đó xem sao.

- Quý khách có thể đăng ký đặt phòng tại chỗ chúng tôi.

- À không, cô cho tôi xin số đi, vì có thể trong lúc lái xe qua đó tôi sẽ bất ngờ ghé vào...

- Xin quý khách chờ một lát.

Trong lúc chờ đợi, gã chuẩn bị sẵn cây bút bi và cuốn sổ ghi chép.

- Quý khách đã có giấy bút chưa ạ?

Cô gái trở lại ống nghe và đọc số điện thoại hai lần. Có cả thảy mười một con số vì mã vùng khá dài. Gã nhanh nhẹn ghi lại.

- Cô cho tôi hỏi thêm là ngoài khu đó ra còn có khu nào khác không?

- Chúng tôi còn có hai khu giải trí tổng hợp tương tự như thế ở hồ Hamana và Hamajima thuộc tỉnh Mie.

Xa quá! Đám học sinh trung học và trường dự bị làm sao có đủ tiền đi đến chỗ đó.

- Tôi hiểu, các khu nghỉ dưỡng của công ty đều nhìn ra Thái Bình Dương đúng như tên gọi cô nhỉ.

Sau đó cô gái bắt đầu hồ hởi giải thích rằng nếu trở thành hội viên của Câu lạc bộ Pacific Resort thì sẽ được hưởng những ưu đãi tuyệt hảo như thế nào. Asakawa nghe lấy lệ một lát trước khi cắt ngang:

- Cảm ơn cô, tôi sẽ xem trong tờ giới thiệu của công ty sau. Cô gửi cho tôi theo địa chỉ này nhé.

Asakawa đọc địa chỉ rồi gác máy. Kể mà dư giả tiền bạc thì có khi mình cũng đăng ký hội viên, trong lúc nghe cô gái nọ giới thiệu Asakawa bắt đầu nghĩ thế thật.

Yoko đã ngủ được hơn một giờ, ông bà ngoại cũng đã về Ashikaga. Shizu đang đứng trong bếp rửa bát hộ chị, Yoshimi lại sắp bị những ý nghĩ đau khổ giày vò. Asakawa cũng hăng hái phụ giúp việc dọn dẹp bát đĩa ngoài phòng khách.

- Anh này hôm nay lạ thật đấy. – Shizu nói trong khi vẫn không ngừng tay. – Cho con ngủ, phụ giúp việc bếp núc. Hay là thay đổi tâm tính rồi đấy? Giá mà lúc nào cũng được như thế thì tốt.

Asakawa đang mải nghĩ ngợi, gã không muốn bị quấy rầy. Gã muốn vợ gã im miệng đi đúng như cái tên của cô (Shizu trong tiếng Nhật có nghĩa là im lặng). Cách tốt nhất để đàn bà khỏi mở miệng là không trả lời.

- À này, trước lúc đặt nó, anh đã đóng bỉm chưa đấy? Để nó tè dầm ra nhà người khác là phiền lắm.

Asakawa chẳng thèm để ý, gã nhìn khắp một lượt trong bếp. Tomoko chết ở đây. Nghe nói mảnh thuỷ tinh của chiếc cốc vỡ và nước Coca văng đầy trên sàn. Rất có thể đúng lúc Tomoko lấy chai Coca từ tủ lạnh ra và định uống thì đám virus nọ tấn công. Asakawa mở tủ lạnh và thử bắt chước đúng như những gì Tomoko đã làm. Gã tưởng tượng ra cái cốc và giả vờ uống.

- Anh này... làm cái gì đấy?

Shizu há hốc mồm nhìn chồng. Asakawa vẫn tiếp tục. Gã vừa giả bộ uống vừa quay lại đằng sau. Quay lại, trước mặt gã là cánh cửa kính ngăn cách bếp với phòng khách. Trên đó, bóng đèn huỳnh quang chỗ bồn rửa bát đang hắt ánh. Có lẽ tại trời vẫn sớm, phòng khách còn nhiều ánh sáng nên trên khung cửa kính chỉ có bóng của chiếc đèn huỳnh quang chứ không thấy rõ nét mặt những người trong bếp. Giả sử phòng khách tối đen còn bên này có ánh sáng, phải rồi, giống Tomoko đã đứng đây tối hôm đó... thì chắc chắn, cánh cửa kính sẽ thành một tấm gương soi rõ mọi vật trong bếp. Nó sẽ phản chiếu khuôn mặt biến dạng vì sợ hãi của Tomoko. Asakawa chợt cảm thấy tấm kính tựa như kẻ ghi lại tất cả những gì đã xảy ra. Sự giằng co giữa ánh sáng và bóng tối sẽ biến tấm kính trở nên trong suốt hoặc thành một tấm gương. Đúng lúc Shizu định chạm vào vai Asakawa, đang gí mặt mình vào ô cửa kính như bị thôi miên, thì có tiếng trẻ con khóc vọng xuống từ tầng hai. Yoko vừa tỉnh giấc.

- Ôi, Yoko dậy rồi đấy. 

Shizu lau bàn tay ướt vào khăn. Nhưng tiếng khóc nghe sao rợn người, chẳng giống tiếng khóc của một đứa trẻ mới thức giấc. Shizu tất tả chạy lên.

Yoshimi vào bếp thay Shizu rửa nốt chỗ bát đĩa. Asakawa lấy ra tấm thẻ hội viên.

- Chị này, em nhặt được nó dưới chân đàn piano.

Asakawa thản nhiên nói như vậy và chờ phản ứng của Yoshimi. Cô nhận lấy tấm thẻ rồi lật mặt sau lên xem.

- Lạ thật đấy, sao lại có cái này nhỉ.

Yoshimi cau mày khó hiểu.

- Hay là cháu Tomoko mượn của bạn?

- Nhưng chị chưa từng nghe thấy cái tên Nonoyama này bao giờ. Chả lẽ trong đám bạn nó lại có ai tên như vậy?

Yoshimi gật đầu không nói. Rồi cô đi ra vì chợt có tiếng gọi của người chồng từ phòng khách. Người bố mất con ngồi quỳ trước bàn thờ còn mới, miệng đang lẩm bẩm điều gì đó với tấm di ảnh. Giọng nói nghe vui vẻ đến giật mình khiến Asakawa trở nên u uẩn. Con người đó đang muốn phủ nhận hiện thực. Asakawa chỉ còn biết cầu nguyện để hai người họ có thể vượt qua.

Có một điều này mà Asakawa biết chắc. Là nếu quả thật nhân vật có cái tên Nonoyama cho Tomoko mượn thẻ hội viên thì chắc chắn nhân vật này phải liên lạc với Tomoko để đòi lại tấm thẻ ngay sau khi biết tin cô chết. Nhưng mẹ Tomoko không hề biết gì. Đương nhiên là không có chuyện Nonoyama quên tấm thẻ. Cho dù là thẻ hội viên gia đình mượn của bố mẹ thì cũng không thể làm mất rồi lờ đi được, vì họ đã phải trả cả một đống tiền hội phí cho nó. Lý giải sao đây? Asakawa bèn suy luận thế này. Nonoyama đã cho một trong ba người còn lại, nghĩa là Iwata, Tsuji, Nomi mượn tấm thẻ. Tuy nhiên vì một lẽ nào đó mà tấm thẻ đã rơi vào tay Tomoko và không ai biết. Nonoyama liên lạc với bố mẹ người đứng ra mượn thẻ. Bố mẹ người này đi tìm trong đống đồ đạc của con nhưng không thấy. Tất nhiên rồi, vì tấm thẻ đang ở đây. Theo hướng đó, biết đâu gã lại chẳng có được địa chỉ của Nonoyama nếu liên lạc với ba gia đình kia? Cần phải gọi điện ngay trong tối nay. Bằng cách ấy mà không tìm được manh mối gì thì gần như có thể loại trừ khả năng tấm thẻ đã cung cấp một địa điểm chung cho cả bốn đứa. Nhưng dù sao gã cũng muốn gặp và hỏi chuyện Nonoyama. Còn một cách cuối cùng là gã sẽ lần ra địa chỉ từ số hiệu hội viên của Câu lạc bộ Pacific Resort. Gã biết không dễ gì lấy được thông tin đó từ phía công ty, nhưng vỏ quít dày có móng tay nhọn, gã sẽ sử dụng những mối quen biết trong làng báo.

Anh ơi... anh ơi... Ai đó đang gọi gã, tiếng gọi từ khá xa. Ấy là tiếng vợ gã đang ríu lại cùng với tiếng con khóc.

- Anh ơi, lên đây đi.

Asakawa choàng tỉnh. Bất chợt, gã chẳng còn biết vừa rồi mình đã nghĩ những gì. Không hiểu sao tiếng khóc của con bé nghe lạ quá. Càng lên đến gần gã càng cảm thấy vậy.

- Chuyện gì thế?

Asakawa nói như trách vợ.

- Lạ quá, cứ như nó bị làm sao ấy. Nó khóc chẳng giống bình thường gì cả. Hay là bị ốm?

Asakawa áp tay lên trán con. Không sốt. Nhưng bàn tay nhỏ bé của nó đang run. Cơn run truyền ra khắp người, thỉnh thoảng tấm lưng lại giật mạnh. Mặt cô bé tím tái, đôi mắt nhắm nghiền.

- Nó bị thế này từ bao giờ?

- Chắc là lúc tỉnh dậy nó không thấy ai ở bên cạnh.

Lúc tỉnh dậy, con bé thường hay khóc khi không thấy mẹ. Nhưng hễ được mẹ bế lên là nó nín ngay. Trẻ con khóc khi muốn nói điều gì đó. Yoko định nói gì... Đó không phải là cách nó làm nũng. Nó đang nắm chặt hai bàn tay nhỏ xíu vào nhau, giơ lên trước mặt... Nó sợ. Phải rồi, nó luôn gào khóc khi quá sợ. Yoko đang ngoảnh mặt đi, nó hơi xoè nắm đấm đang bấu chặt và cố chỉ lên phía trên. Asakawa nhìn theo hướng ấy. Ánh mắt gã bắt gặp chiếc cột. Gã đưa mắt lên cao hơn. Trên đó, cách trần nhà ba mươi phân là chiếc mặt nạ hình quỷ Hannya cỡ lớn. Con bé sợ mặt nạ quỷ?

- Hoá ra tại cái đó.

Asakawa hất hàm chỉ. Cả hai người cùng nhìn chiếc mặt nạ, rồi từ từ quay sang nhau.

- Quái lạ, chẳng lẽ nó biết sợ quỷ?

Asakawa đứng dậy tháo chiếc mặt nạ trên cột xuống và úp lên nóc tủ. Làm thế này Yoko sẽ không nhìn thấy nó nữa. Đúng lúc ấy, tiếng khóc im bặt.

- Lạ thật, Yoko biết sợ quỷ cơ đấy.

Thở phào vì hiểu ra nguyên cớ, Shizu vui vẻ cọ má vào mặt con. Có cái gì đó mà Asakawa vẫn chưa hiểu. Nhưng gã không muốn ở lại căn phòng này thêm nữa.

- Thôi, mình về sớm đi. - Asakawa giục vợ.

Xế chiều, vừa từ nhà Oishi về, Asakawa liền lần lượt gọi điện cho gia đình Tsuji, Nomi, Iwata để hỏi xem có ai trong số người quen của con cái họ hỏi tới tấm thẻ kia không. Cuối cùng khi gọi tới nhà Iwata, bà mẹ đã nói một mạch với gã rằng: "Có một cậu tự xưng là bạn học khoá trên của nó ở trường trung học gì đó gọi điện đến, bảo hôm trước có cho nó mượn cái thẻ hội viên, hôm nay gọi điện để xin lại... Nhưng tôi tìm khắp phòng nó rồi mà không thấy, đang chẳng biết phải ăn nói làm sao với người ta". Nhờ vậy mà gã lập tức lấy được số điện thoại và có thể gọi ngay cho Nonoyama.

Nonoyama nói rằng cậu ta gặp Iwata ở Shibuya vào Chủ nhật tuần cuối cùng của tháng Tám và đã cho Iwata mượn thẻ hội viên, đúng như những gì gã nghĩ. Cậu ta còn kể Iwata có bảo rằng nó sẽ đi nghỉ cùng với một con bé học sinh trung học nó đang tán tỉnh.

"Sắp hết kỳ nghỉ hè đến nơi rồi, không chơi tơi bời một phát cuối thì em chịu không học cho ra hồn được đâu ông anh ạ."

Nonoyama bật cười khi nghe Iwata nói vậy.

"Thằng khỉ, học sinh trường dự bị mà cũng đòi có nghỉ hè."

Chủ nhật tuần cuối cùng của tháng Tám là ngày 26, nên nếu chúng đi chơi và nghỉ lại đâu đó thì sẽ là vào một trong các ngày 27, 28, 29, 30. Vì sang tháng Chín cả trường dự bị và trường trung học đều đã bước vào học kỳ mới.

Chắc là mệt mỏi vì đi xa cả ngày nên Yoko và Shizu đều lập tức ngủ rất say. Gã nghe thấy tiếng thở khe khẽ của hai mẹ con lúc áp tai vào cửa buồng ngủ. Chín giờ tối... đây là khoảng thời gian thư thái đối với Asakawa. Nếu vợ con không đi ngủ thì gã chẳng kiếm đâu được một khoảnh yên tĩnh để làm việc trong căn hộ chung cư bé tẹo này.

Asakawa lấy bia từ tủ lạnh và rót vào cốc. Mùi vị của bia hôm nay rất đặc biệt. Rõ ràng là gã đã tiến được một bước dài nhờ tìm thấy tấm thẻ hội viên. Khả năng bốn đứa trẻ, gồm cả Iwata, sử dụng khách sạn hoặc biệt thự cho thuê ở khu nghỉ dưỡng Pacific Resort vào một trong các ngày 27, 28, 29, 30 của tháng Tám là cực kỳ cao. Nhưng trong số các khu nghỉ dưỡng, biệt thự gỗ cho thuê Villa Log Cabin tại Pacific Land ở Nam Hakone là đáng chú ý nhất. Xét về khoảnh cách, không đâu lý tưởng bằng Hakone, hơn nữa, không thể có chuyện một nhóm học sinh trung học ít tiền mà lại dám nghỉ ở một khách sạn hạng sang. Cho nên, theo lẽ thường hẳn là bọn chúng sẽ dùng thẻ hội viên để nghỉ ở một biệt thự cho thuê rẻ tiền. Giá thuê một căn biệt thự cho hội viên ở đó là năm nghìn yên, tính ra mỗi đứa chỉ cần góp vào hơn một nghìn yên là đủ.

Gã đã có số điện thoại của khu Villa Log Cabin trong tay. Asakawa đang đặt cuốn sổ ghi chép trên bàn. Cách nhanh nhất là gọi điện đến lễ tân để kiểm tra xem có nhóm bốn người nào với cái tên Nonoyama đã từng nghỉ ở đấy không. Tuy nhiên, có gọi điện thì cũng đời nào họ chịu trả lời. Người quản lý ở những khu biệt thự trong các câu lạc bộ resort vốn được huấn luyện rất kỹ càng nên đương nhiên họ sẽ coi việc giữ kín bí mật của khách hàng là nghĩa vụ. Và dù có chứng minh mình là phóng viên của một tờ báo lớn và nói rõ mục đích của cuộc điều tra thì cũng không bao giờ họ tiết lộ cho gã biết. Hay là mình sẽ liên lạc với phân xã ở đó để nhờ một tay luật sư cánh hữu yêu cầu họ cho xem số đăng ký thuê phòng, Asakawa nghĩ. Trong những trường hợp như thế này, chỉ có cảnh sát và luật sư là có quyền yêu cầu người quản lý cho xem sổ. Gã có thể đóng giả, nhưng nếu bị lộ thì sẽ rất phiền tới công ty. Thôi, cứ chính danh là an toàn và chắc chắn nhất.

Chỉ có điều, nếu nhờ luật sư thì sẽ phải mất ít nhất ba đến bốn ngày. Mà Asakawa thì không đợi được lâu thế. Gã muốn biết ngay bây giờ. Sự háo hức muốn làm sáng tỏ vụ án sôi sục đến mức gã không thể chịu đựng nổi khoảng thời gian ba ngày. Rốt cuộc, cái gì đang chờ gã ở phía trước? Nếu đúng là bốn đứa trẻ đã nghỉ lại một đêm tại khu Villa Log Cabin ở Pacific Land Nam Hakone vào cuối tháng Tám và đó chính là nguyên nhân cho những cái chết bí ẩn ấy, thì rốt cuộc điều gì đã xảy ra? Virus, virus. Gã thừa hiểu virus chỉ là cách nói cứng gã dùng để thoát khỏi áp lực về một thứ gì thần bí. Ở một mức độ nào đấy, sẽ là hợp lý khi lấy sức mạnh khoa học để đối chọi lại với sức mạnh siêu nhiên. Người ta không thể bàn về một thứ không biết bằng thứ ngôn từ mà người ta không biết. Người ta phải diễn đạt cái thứ không biết ấy bằng một ngôn từ mà người ta biết.

Asakawa nhớ lại tiếng khóc của Yoko. Chiều hôm nay, tại sao khi nhìn thấy mặt nạ hình quỷ con bé lại sợ hãi đến vậy? Trên xe điện về nhà, Asakawa hỏi vợ.

- Này, có phải em dạy cho Yoko biết về quỷ không?

- Ý anh là sao?

- Nghĩa là em đã bao giờ chỉ cho nó xem con quỷ trên tranh và dạy rằng nó rất đáng sợ chưa?

- Không, làm gì có...

Cuộc trò chuyện chỉ diễn ra có vậy. Shizu chẳng nghi ngờ gì cả. Nhưng Asakawa thì nghĩ ngợi. Nỗi sợ ấy là nỗi sợ khi bản năng bị chạm đến. Nó khác với nỗi sợ có được qua dạy bảo và kinh nghiệm. Ngay từ thời vượn người nguyên thuỷ, con người đã luôn sống với những nỗi sợ. Sấm sét, giông bão, thú rừng và bóng tối... Vì vậy, một đứa trẻ sẽ sợ hãi ngay lần đầu tiên khi nó tiếp xúc với sấm sét, ấy là nỗi sợ của bản năng. Chỉ có điều sấm sét thì thực sự tồn tại, còn ma quỷ... Gã tra từ điển quốc ngữ, ở đó định nghĩa rằng "Quỷ là quái vật hoặc linh hồn người chết chỉ có trong tưởng tượng". Nếu Yoko sợ quỷ vì bộ mặt dữ tợn thì chắc chắn nó cũng phải sợ khi nhìn thấy mô hình con Gozilla chứ. Thực ra Yoko đã từng nhìn thấy Gozilla trong khung kính vào một lần đi mua sắm. Đó là một mô hình được làm rất tinh xảo. Chỉ có điều thay vì sợ, mắt con bé ánh lên thích thú và nhìn mãi không thôi. Phải giải thích việc này như thế nào? Gozilla, nói gì thì nói, rõ ràng là một kiểu quái vật trong tưởng tượng. Vậy thì tại sao nó lại sợ quỷ... Phải chăng quỷ là thứ chỉ có riêng ở Nhật Bản. Không, phương Tây cũng có một loại tương tự như thế: ác quỷ... Gã bỗng thấy bia không còn ngon như cốc đầu tiên. Liệu Yoko còn sợ thứ gì khác? Phải rồi, bóng tối. Con bé sợ nhất bóng tối. Nó không bao giờ dám vào trong phòng một mình nếu không có điện. Bóng tối là một thứ có thật đối lập với ánh sáng. Giờ này, trong căn buồng tối, Yoko đang ngon giấc giữa vòng tay mẹ.

Chương 2: CAO NGUYÊN

1.

Thứ Năm, ngày 11 tháng Mười

Asakawa phải tăng tốc độ cần gạt nước vì mưa mỗi lúc một mau. Thời tiết ở Hakone rất thất thường. Dưới Odawara trời vẫn nắng, song càng lên cao không khí càng ẩm ướt và đến đỉnh đèo thì một cơn mưa dữ dội ập đến. Gã đã gặp chuyện này một vài lần. Nếu là ban ngày thì gã còn có thể phần nào dự đoán được thời tiết trên núi dựa vào những đám mây bao lấy đỉnh Hakone. Nhưng ban đêm, gã chẳng thấy gì ngoài bóng tối phía sau ánh đèn pha. Mãi đến khi dừng xe lại và ngẩng nhìn lên gã mới nhận ra bầu trời đầy sao đã biến mất. Lúc gã lên tàu ở Tokyo, phố xá bắt đầu chìm trong mờ tỏ. Tới ga Atami, lúc thuê xe gã vẫn còn thấy bóng trăng ẩn hiện qua những kẽ mây. Thế mà bây giờ, những giọt nước nhỏ li ti phất phơ trước ánh đèn pha đã biến thành cơn mưa thật sự, quất thẳng vào kính trước.

Bảng đồng hồ điện tử phía trên công-tơ-mét hiển thị con số 19:32. Asakawa nhẩm tính quãng đường thời gian cho tới lúc này. Gã lên tàu ở Tokyo lúc 17:16 và tới ga Atami lúc 18:07. Ra khỏi cửa soát vé và làm xong thủ tục thuê xe lúc 18:30. Mua hai hộp mỳ cốc, một chai Whisky loại nhỏ ở chợ và thoát ra khỏi khu nội thị toàn đường một chiều vào lúc 19:00.

Đường hầm dài xuyên qua rặng núi đá Tanna bắt đầu hiện ra trước mắt gã trong ánh đèn vàng nhấp nháy. Đi hết đường hầm ra tới tỉnh lộ Atami-Kannami là sẽ thấy biển chỉ dẫn lối vào Pacific Land Nam Hakone. Vào tới bên trong tiếng gió rít bên thành xe nghe khác hẳn. Cùng lúc, màu da gã, chiếc ghế bên cạnh, tất cả mọi thứ trong xe đều bị nhuộm vàng bởi ánh đèn màu cam, gã bỗng thấy bồn chồn. Gã sởn gai ốc. Không có bóng xe nào chạy ngược lại, tiếng cần gạt nước ken két miết vào mặt kính trước. Gã ngắt công tắc cần gạt nước. Gã sẽ tới đó trước tám giờ. Đường vắng tanh vậy mà gã không hề có ý định tăng ga. Tự nhiên, trong vô thức, gã thấy sợ phải đi đến đó.

Tấm bảng chỉ dẫn lối vào Pacific Land Nam Hakone được dựng trên một sườn núi. Không đèn nê-ông quảng cáo, chỉ có tấm bảng chắn với những vệt sơn đen. Vì thế, nếu bỏ lỡ cái tích tắc đèn pha chiếu vào tấm biển, bất kỳ ai cũng có thể chạy tuột qua. Asakawa cho xe rẽ sang trái và leo lên con đường núi chạy giữa những mảnh ruộng bậc thang. Quá nhỏ so với một lối vào khu nghỉ dưỡng. Gã thấy hơi lo lắng; không khéo lại là đường cụt. Gã cài số thấp và leo một cách chậm rãi vì nhiều đoạn cua gấp mà đèn đường thì không có. Cũng chẳng còn khoảng trống nào để tránh nếu có xe ngược chiều chạy lại.

Mưa đã tạnh tự lúc nào. Bây giờ Asakawa mới nhận ra điều dó. Thời tiết giữa sườn Đông và sườn Tây của dải núi đá Tanna thật trái ngược nhau.

Song đó không phải là đường cụt, nó chạy dài mãi lên trên. Hai bên đường bắt đầu lác đác xuất hiện những ngôi biệt thự đang rao bán. Rồi đột nhiên, cảnh vật hoàn toàn thay đổi, đường mở thành làn đôi, mặt đường tốt hơn và hai bên được trang hoàng bằng những hàng đèn. Sự biến đổi ấy khiến Asakawa kinh ngạc. Gã đã vào đến Pacific Land, khắp nơi là những đồ trang trí xa xỉ. Con đường nhỏ chạy xuyên qua ruộng vừa rồi là sao? Con đường vốn hẹp lại càng hẹp hơn bởi lá ngô và đám lau sậy cao ngút đầu xoè ra từ hai phía làm gã thấy bồn chồn với ý nghĩ: rất có thể nó đang chờ mình ở khúc cua kế tiếp.

Đối diện với bãi đậu xe rất rộng là toà nhà ba tầng, ở đó có trung tâm thông tin và nhà hàng. Asakawa dừng xe ngay trước sảnh lớn và bước vào trong. Gã nhìn đồng hồ: vừa tám giờ, đúng như dự tính. Có tiếng đập bóng từ đâu đó vọng lại. Phía dưới trung tâm là sân quần vợt, có mấy đôi nam nữ đang hào hứng chơi tennis trong ánh đèn vàng vọt. Thật lạ, cả bốn sân đều đang được sử dụng. Tám giờ, thứ Năm, một ngày thượng tuần tháng Mười, Asakawa không thể hiểu nổi thần kinh của những kẻ đã tới tận đây để chơi tennis vào giờ này. Dưới sân tennis, ở mãi đằng xa, có thể nhìn thấy ánh đèn đêm từ Manj Mishima và Numazu hắt tới. Và khoảng tối phía xa hơn nữa, đậm đặc như hắc ín, là vịnh Tago-no-Ura.

Bước vào trung tâm, ngay trước mặt gã là nhà hàng. Gã có thể nhìn thấy mọi thứ bên trong nhà hàng vì nó được làm bằng kính. Asakawa lại một lần nữa phải kinh ngạc. Nhà hàng đóng cửa lúc tám giờ, vậy mà các thực khách, đa phần là các gia đình và những nhóm toàn phụ nữ, vẫn còn quá nửa. Chuyện quái gì thế nhỉ, gã chau mày khó hiểu. Đám người này từ đâu đến? Gã không sao lý giải nổi. Khó mà tin được rằng bọn họ đã tới đây bằng con đường mà gã vừa đi qua. Biết đâu đấy, con đường mà gã đi qua chỉ là đường tắt, chứ thực ra còn có con đường khác sáng sủa và rộng rãi hơn? Nhưng khi chỉ đường đến Pacific Land, cô lễ tân đã chẳng nói thế qua điện thoại là gì.

"Quý khách cứ đi theo tỉnh lộ Atami-Kannami, được nửa đường thì rẽ trái và leo hết con đường núi là tới."

Asakawa đã đi đúng như vậy. Không thể có con đường nào khác.

Asakawa bước vào nhà hàng dù biết đã hết giờ đón khách. Dưới ô cửa kính cực lớn là thảm cỏ được cắt tỉa khéo léo tạo thành một sườn dốc mềm mại đổ về phía thành phố trong đêm. Gã đoán rằng người ta cố tình giảm lượng ánh sáng trong phòng để các vị khách có thể ngắm cảnh đêm được đẹp hơn. Gã níu lấy một người bồi bàn đi lại gần phía gã để hỏi đường tới Villa Log Cabin. Anh ta chỉ ra sảnh chính, chỗ ban nãy gã vừa bước vào.

- Anh rẽ phải theo con đường đó, đi thêm hai trăm mét nữa thì tới phòng quản lý.

- Có bãi đậu xe không?

- Bãi đậu xe ở ngay trước phòng quản lý.

Đơn giản chỉ có vậy. Chỉ cần đi thẳng và không rẽ vào đây là tự nhiên sẽ tới. Nhưng tại sao gã lại bị thu hút bởi toà nhà đầy vẻ hiện đại này, và tại sao gã lại sốt sắng đi vào nhà hàng? Gã phần nào có thể phân tích được tâm lý ấy của mình: vì bằng cách đó gã cảm thấy yên lòng. Suốt dọc đường, bóng dáng những căn nhà gỗ nhỏ tăm tối tách biệt với thế giới hiện đại, tưởng như có thể là bối cảnh hoàn hảo cho bộ phim Thứ Sáu ngày 13, luôn choán lấy tâm trí gã, nhưng ở đây, gã không thấy khung cảnh nào như thế. Và đứng trước bằng chứng nói lên rằng sức mạnh của khoa học hiện đại cũng đang có mặt nơi đây khiến gã thấy vững tâm. Duy có một điều làm gã băn khoăn, ấy là sự kinh khủng của con đường từ chân núi lên đây, và mặc vậy, vẫn có rất nhiều kẻ đang vui thú với quần vợt và say sưa ăn uống trên đỉnh núi này. Gã không hiểu tại sao gã lại băn khoăn về điều ấy. Song, gần như chắc chắn, gã không hề cảm thấy những người ở đây đang sống.

Sân tennis và nhà hàng đông đúc như thế, hẳn là Asakawa sẽ nghe thấy những tiếng chuyện trò vui vẻ sau bữa tối vọng ra từ vài căn biệt thự. Gã đã hy vọng thế. Nhưng, khi đứng trên bãi xe và nhìn xuống tận đáy dốc, gã cũng chỉ đếm nổi sáu trong số mười ngôi biệt thự gỗ được xây dựng giữa rừng trên một sườn dốc thoai thoải. Xa hơn nữa, chỉ có bóng đêm dày đặc của cánh rừng vì ánh đèn đường không đủ sức chiếu tới, vả lại cũng chẳng có lấy một ngọn sáng nào thoát ra từ các căn phòng. B-4, nơi gã sẽ nghỉ lại đêm nay nằm đúng trên cái ranh giới sáng tối ấy và tất cả những gì mà gã có thể thấy được là phần trên của cánh cửa chính.

Asakawa vòng ra đằng trước, mở cửa và bước vào phòng quản lý. Có tiếng ti vi nhưng không có người. Người quản lý đang ngồi trong căn phòng kiểu Nhật nằm sâu bên tay trái nên không để ý thấy Asakawa vừa vào. Gã không biết bên trong đó ra sao vì vướng chiếc quầy. Có vẻ như người quản lý đang xem một bộ phim nước ngoài chứ không phải một chương trình truyền hình, lời thoại bằng tiếng Anh cùng với khuôn hình đang rung rinh phản chiếu lên cánh cửa tủ trước mặt gã. Có rất nhiều những cuốn băng video nằm trong vỏ được xếp kín trên chiếc tủ bắt chặt vào tường. Asakawa tì tay lên quầy và cất tiếng gọi. Ngay lập tức một người đàn ông xấp xỉ lục tuần thò cổ ra và cúi chào: "Ồ, xin mời vào!" Đây chắc hẳn là người đàn ông đã xuất trình sổ đăng ký thuê phòng theo yêu cầu điều tra của luật sư và ban tin tức Atami... Nghĩ vậy, Asakawa nở một nụ cười thân mật.

- Cháu là Asakawa, có đặt phòng ở đây.

Người đàn ông mở sổ kiểm tra.

- Đúng rồi, B-4. Nhờ anh viết tên và địa chỉ vào đây cho.

Asakawa điền tên thật của mình vào. Gã không còn cầm tấm thẻ hội viên nữa vì vừa gửi trả cho Nonoyama ngày hôm qua.

- Có một mình thôi à?

Người quản lý ngước nhìn Asakawa một cách lạ lùng. Trước nay chưa có ai nghỉ một mình ở đây bao giờ. Nếu chỉ có một mình và không phải hội viên thì nghỉ ở khách sạn sẽ kinh tế hơn. Người quản lý đưa cho gã hai tấm chăn rồi quay lại phía chiếc tủ.

- Nếu anh thích thì có thể mượn một cuốn. Có đủ các chủ đề ăn khách đấy.

- Ồ, bác cho thuê cả băng video cơ à?

Asakawa đưa mắt điểm qua các tựa phim trong đống băng xếp kín cả một mặt tường. Cuộc truy tìm rương thánh tích (Raiders of the Lost Ark), Chiến tranh giữa các vì sao (Star Wars), Trở lại tương lai (Back to the Future), Thứ Sáu ngày 13 (Friday the 13th)..., toàn các bộ phim ăn khách nước ngoài, chủ yếu là thể loại khoa học giả tưởng, phim mới cũng nhiều. Tới Villa Log Cabin này hẳn là toàn bọn trẻ. Chẳng có bộ phim nào làm gã thấy quan tâm. Hơn nữa, gã đến đây vì công việc.

- Tiếc thật, cháu nhiều việc quá.

Asakawa nhắc chiếc máy chữ xách tay đang để trên bàn lên cho người quản lý xem. Có vẻ như vì thế mà ông ta đã hiểu ra tại sao gã lại đến đây có một mình.

- Trong phòng có đầy đủ đồ làm bếp chứ ạ? – Asakawa hỏi.

- Vâng, anh có thể dùng bất cứ thứ gì.

Hỏi vậy thôi, chứ Asakawa chỉ cần một chiếc siêu đun nước nóng để pha mỳ cốc là đủ. Người quản lý hướng dẫn Asakawa đường đi đến ngôi biệt thự B-4 trong lúc gã cầm lấy chăn cùng với chìa khoá và đang định bước ra ngoài. Rồi ông ta nói với gã bằng một vẻ lịch sự kỳ lạ: "Mong quý khách thấy thoải mái như ở nhà."

Trước khi chạm tay vào nắm cửa, Asakawa lấy đôi găng tay cao su đã chuẩn bị trước ra và xỏ vào. Chúng như tấm bùa hộ mạng bảo vệ gã khỏi lũ virus giấu mặt và làm yên lòng gã.

Asakawa mở cửa, bật công tắc cạnh lối vào, bóng đèn 100 oát chiếu sáng cả căn phòng khách rộng thênh thang. Từ giấy dán tường, thảm trải sàn, ghế sofa cho bốn người, ti vi, cho đến bộ bàn ăn, mọi thứ trong phòng đều còn mới và được bài trí một cách hợp lý. Asakawa bỏ giày và bước vào trong. Phòng khách quay mặt ra ban công, tầng một và tầng hai mỗi tầng có một phòng kiểu Nhật rộng vừa phải. Quả thật sự rộng rãi ấy là quá xa xỉ nếu chỉ dành cho một người. Gã kéo chiếc rèm đăng ten đồng thời mở cánh cửa kính để không khí lùa vào. Căn phòng quá sạch sẽ, trái hẳn với những gì gã mong đợi. Biết đâu gã sẽ phải ra về mà chẳng kiếm được manh mối nào. Ý nghĩ ấy bất chợt đến trong đầu gã.

Asakawa bước vào căn phòng kiểu Nhật kế bên phòng khách và mở tủ hốc. Chẳng có gì. Gã cởi sơ mi và quần dài rồi mặc một chiếc áo giéc-xi và quần thể thao. Gã treo bộ đồ thay ra vào tủ hốc. Gã đi lên tầng hai, bật đèn trong căn phòng kiểu Nhật. Mình chẳng khác gì một đứa trẻ con, gã tự cười. Gã nhận thấy gã đã bật tất cả mọi nguồn sáng có thể được ở trong phòng.

Sau khi phòng đã đủ sáng, gã rón rén mở cửa toilet. Gã vẫn để cánh cửa hơi he hé trong lúc kiểm tra bên trong. Gã nhớ lại tính nhát ma hồi nhỏ của mình. Vào đêm mùa hè, gã không bao giờ dám đi vệ sinh một mình, gã luôn để cửa toilet mở hé và nhờ bố ngồi trông ở ngoài. Bên kia tấm kính mờ là buồng tắm. Buồng tắm ngăn nắp, không có hơi nước, cả bồn tắm và bồn rửa mặt đều khô ráo. Chắc chắn là lâu rồi không có khách đến đây. Gã định tháo găng tay cao su nhưng mồ hôi làm nó dính chặt vào tay không sao cởi ra được. Cơn gió mang theo hơi lạnh của cao nguyên thổi vào phòng làm tấm rèm lay động.

Asakawa lấy đá trong tủ lạnh cho vào đầy cốc. Gã mở chai whisky mua trước lúc tới đây và rót chừng phân nửa. Sau đó, gã định pha thêm với một chút nước máy, nhưng sau một thoáng chần chừ, gã khoá miệng vòi lại và tự thuyết phục mình rằng, gã thích uống đặc hơn. Gã không dám đưa bất cứ thứ gì trong ngôi nhà này vào miệng. Chỉ có đá là gã không đề phòng vì tin rằng: vi sinh vật không thể chịu được nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp.

Asakawa ấn mình thật sâu xuống ghế sofa và bật ti vi. Có tiếng hát của một ca sỹ mới nổi. Giờ này, Tokyo cũng đang phát chương trình đó. Asakawa chuyển kênh. Gã điều chỉnh âm lượng vừa đủ mặc dù không hề có ý định xem, rồi lấy chiếc máy quay phim ra và đặt lên bàn. Gã muốn ghi lại tất cả nếu có chuyện bất thường xảy ra.

Asakawa tợp một ngụm hết cốc whisky. Gã cảm thấy bình tâm đôi chút. Sau đó, một lần nữa, Asakawa sắp xếp lại mọi diễn biến cho đến lúc này trong đầu. Nếu đêm nay gã không thu hoạch được gì thì nghĩa là bài báo gã định viết sẽ bế tắc. Nhưng biết đâu như thế lại chẳng tốt hơn. Không thu lượm được manh mối nào nghĩa là gã sẽ không bị nhiễm loại virus đó. Gã có vợ có con, gã không muốn chết theo một cách khác thường. Asakawa gác chân lên bàn.

... Này, mi đang đợi gì thế? Không sợ ư? Không sợ thật đấy chứ? Thôi nào, cẩn thận kẻo thần chết tới bây giờ.

Asakawa căng thẳng nhìn quanh, gã không sao có thể cố định ánh mắt vào một điểm trên tường. Vì gã sợ nếu nhìn lâu, mọi tưởng tượng trong đầu gã sẽ hiện ra trước mặt.

Từ bên ngoài, gió lạnh thổi vào. Gã khép cửa và nhìn rất nhanh ra ngoài trời tối lúc kéo rèm. Đằng trước là bờ mái của ngôi biệt thự B-5, cái bóng của nó tạo thành một quầng tối đen đặc. Cả sân tennis và nhà hàng đều đông người. Nhưng tại sao lại chỉ có mình Asakawa ở đây? Kéo rèm xong gã ngó đồng hồ. Tám giờ năm mươi sáu phút. Gã mới ở trong căn phòng này chưa đầy ba mươi phút. Vậy mà gã có cảm giác như đã một tiếng trôi qua. Chỉ ngủ lại đây thôi hẳn là chẳng có gì nguy hiểm. Gã cố gắng nghĩ như vậy để trấn an mình. Vì tính ra khu Villa Log Cabin hoạt động cũng đã được nửa năm, trong nửa năm ấy tất phải có rất nhiều người đến nghỉ tại ngôi biệt thự B-4 này. Nhưng đâu phải tất cả những người đến nghỉ tại đây đều thiệt mạng. Cho tới lúc này, theo gã biết, mới chỉ có bốn đứa trẻ đó. Không loại trừ khả năng còn có những nạn nhân khác nếu điều tra kỹ hơn, nhưng hiện tại thì không. Tóm lại, vấn đề không ở chỗ chúng đã nghỉ lại đây, mà ở chỗ chúng đã làm một điều gì đó.

... Vậy thì chúng đã làm những gì?

Rồi Asakawa thay đổi một chút cách đặt vấn đề.

... Không, mà là điều mà chúng có thể làm được trong căn nhà này là gì?

Cả toilet, buồng tắm, tủ hốc và tủ lạnh đều không có dấu vết. Giả sử rằng chúng có để lại dấu vết đi chăng nữa thì chắc người quản lý gã gặp ban nãy đã dọn đi mất rồi. Nếu vậy, thay vì ngồi đây thong thả uống whisky, gã nên đi gặp người quản lý thì sẽ được việc hơn.

Cốc thứ nhất đã cạn. Cốc thứ hai gã chỉ rót một ít. Gã không muốn bị say mèm. Gã pha thật nhiều nước, lần này là nước máy. Có vẻ như giác quan cảnh báo nguy hiểm của gã đã phần nào tê liệt. Tự trách mình ngu xuẩn vì đã đến đây, Asakawa gỡ kính, vớt nước rửa mặt và nhìn mình trong gương. Gã nhìn thấy một khuôn mặt bệnh hoạn. Hay là gã nhiễm virus rồi? Gã nốc cạn cốc rượu vừa pha rồi rót thêm cốc nữa.

Trở vào từ phòng ăn, Asakawa phát hiện ra một quyển sổ trên chiếc kệ dưới máy điện thoại. Kỷ niệm những chuyến đi, đó là dòng chữ trên bìa. Gã lật giở.

Chủ nhật, mùng 7 tháng Tư

Nonko sẽ chẳng bao giờ quên ngày hôm nay.

Tại sao à? B-í-m-ậ-t. Yuichi thật tuyệt vời, hihi 

NONKO

Loại sổ kiểu này thường hay thấy xuất hiện trong các nhà nghỉ rẻ tiền để khách có thể ghi lại những kỷ niệm hay cảm tưởng của mình về chuyến đi. Trang tiếp theo là một bức vẽ chân dung bố mẹ, nét vẽ hơi nguệch ngoạc, có lẽ là của một cậu bé đi nghỉ cùng gia đình. Bức tranh đề ngày 14 tháng Tư, nghĩa là vào thứ Bảy.

bố béo phì này

mẹ béo phì này

vì thế con cũng béo phì

ngày mười bốn tháng bốn

Asakawa giở tiếp. Có một trang nào đó ở phía dưới cứ chực kênh lên, nhưng gã vẫn tuần tự lật giở từng tờ. Gã sợ nếu không xem hết gã sẽ bỏ sót điều gì đó.

Có thể thấy khách thường đến đây nghỉ vào các thứ Bảy trước dịp nghỉ hè, tuy nhiên gã không dám chắc vì tất nhiên, có nhiều khách hàng chẳng viết gì. Vào hè, khoảng cách giữa các ngày ghi trong sổ cũng thu hẹp dần, càng về cuối tháng Tám càng có nhiều lời than thở vì mùa hè sắp đi qua.

Chủ nhật, ngày 20 tháng Tám

Ôi, thế là hết hè. Chả có gì thú vị. Có ai giúp tôi không? Có ai cứu vớt kẻ đau buồn khốn khổ này không? Tôi sở hữu một xe máy 400cc. Đẹp trai bất ngờ. Hàng tốt giá rẻ đây.

A.Y

Chẳng khác nào một đoạn quảng cáo tìm bạn tầm thư. Đại loại, các ý tưởng đều có điểm nào đó rất chung. Kẻ đi cùng bạn tình thì muốn chia sẻ kỷ niệm đó với người khác, còn kẻ đơn độc một mình thì bày tỏ ước muốn có người làm bạn.

Nhưng gã đọc mãi mà không thấy chán. Kim giờ của chiếc đồng hồ cuối cùng cũng chỉ đến con số chín.

Trang tiếp theo.

Thứ Năm, ngày 30 tháng Tám

Hù! Ta báo trước. Những kẻ yếu tim chớ nên xem cái này. Sẽ hối hận đấy. Khà khà khà..

S.I

Chỉ có vậy. Ba mươi tháng Tám là buổi sáng đêm bốn đứa trẻ ngủ lại đây. Còn S.I hẳn là tên viết tắt của Iwata Shuichi. Trong số những lời lẽ ghi ở đây, chỉ có trang này là khác. Như thế nghĩa là sao? "Chớ nên xem lại cái này?" Vậy cái này rốt cuộc là gì? Asakawa gấp sổ lại rồi nhìn sang bên mép. Có một nếp gấp kênh lên thành khe hở nhỏ. Asakawa thò ngón tay vào và mở ra... "Hù! Ta báo trước. Những kẻ yếu tim chớ nên xem cái này. Sẽ hối hận đấy. Khà khà khà. S.I.", dòng chữ ấy đập vào mắt gã. Tại sao luôn có một lực khiến cho nó tự mở ra? Rất có thể bọn trẻ đã chặn một vật gì đó lên trên, Asakawa suy luận. Và do đã thành nếp, nên lúc nào nó cũng chực mở ra. Và vật mà bọn chúng dùng để đặt lên trên ấy không phải cái gì khác mà chính là cái này.

Asakawa tìm kiếm xung quanh, rồi lục lọi mọi ngóc ngách của chiếc kệ để điện thoại. Không có gì. Đến cả một cây bút chì cũng không thấy.

Asakawa quay lại ghế sofa và giở tiếp. Ngày sau đó là Chủ nhật, mùng 1 tháng Chín. Không có nội dung gì đặc biệt nên khó đoán được nhóm sinh viên nghỉ lại ngày hôm đấy có xem cái này hay không. Những trang tiếp theo cũng không thấy có bút lục nào liên quan tới cái này, mặc cho gã đã tìm rất kỹ.

Asakawa gấp cuốn sổ lại và châm thuốc. Nội dung của cái này nhất định phải rất đáng sợ nếu căn cứ vào dòng chữ "Những kẻ yếu tim chớ nên xem cái này". Gã mở một trang bất kỳ trong cuốn sổ rồi đè nhẹ tay lên. Cần phải có một vật-gì-đó đủ nặng để thắng được lực gấp của giấy. Nếu chỉ là một hoặc hai bức ảnh ma thì không thể có được sức nặng ấy. Hay là một cuốn tạp chí, hoặc một cuốn sách? Dù gì thì cũng là một thứ cần phải xem. Có lẽ mình nên đi hỏi người quản lý xem ông ta có tìm thấy thứ gì mà khách để lại trong phòng vào ngày 30 tháng Tám không, Asakawa nghĩ. Liệu ông ta còn nhớ hay không? Nếu là một thứ gì đó khác thường và gây ấn tượng mạnh thì ắt hẳn ông ta phải nhớ. Bất chợt, một chiếc đầu quay băng đập vào mắt gã lúc gã định đứng lên. Ti vi vẫn đang bật, trên màn hình là cảnh một nữ diễn viên nổi tiếng đang ôm máy hút bụi và chạy theo chồng. Có vẻ như một đoạn quảng cáo đồ điện gia dụng.

... Đúng vậy, nếu là một cuộn băng thì vừa đủ nặng.

Vẫn ngồi yên, Asakawa dập thuốc. Bộ sưu tập băng video mà gã thấy trong phòng quản lý khi nãy vụt hiện lên trong đầu. Rất có thể bọn chúng tình cờ xem được một bộ phim kinh dị đáng sợ nào đó và muốn giới thiệu cho những người khác cùng xem. Nếu chỉ có vậy... khoan đã, nếu chỉ có vậy tại sao Iwata Shuichi không viết rõ tên của bộ phim? Không ai lại dùng một danh từ chung kiểu như cái này để nói về một bộ phim cụ thể nào đó, như Thứ Sáu ngày 13 chẳng hạn. Và hơn nữa, đâu cần phải đặt cái này lên trên quyển sổ. "Cái này" hẳn là thứ-gì-đó không có tên riêng mà bắt buộc phải gọi bằng cái này.

... Hướng này liệu có đáng để lần theo không?

Không một mảy may manh mối, vậy thì có mất gì đâu nếu cứ thử triển khai giả thiết ấy, còn hơn là ngồi nghĩ ngợi ở đây. Asakawa bước ra ngoài, xuống khỏi những bậc thềm bằng đá và đẩy cửa phòng người quản lý.

Cũng giống như lúc trước, không có bóng dáng của người quản lý ở sau quầy, chỉ có tiếng ti vi vọng ra từ bên trong. Có lẽ, người đàn ông này sau khi nghỉ việc ở một công ty ngoài thành phố, muốn sống nốt phần đời còn lại giữa chốn thiên nhiên nên đã chọn công việc làm người quản lý ở một khu nghỉ dưỡng, nhưng công việc thực sự quá buồn tẻ khiến ông ấy chỉ còn biết tìm vui trong những cuốn băng video... Đấy là cách giải thích của Asakawa về cảnh ngộ của người quản lý. Người quản lý lồm cồm bò dậy ló mặt ra trước khi gã kịp cất tiếng gọi. Asakawa nói như thanh minh.

- Buồn quá nên định xuống mượn bác một cuốn băng về xem.

Người quản lý mừng rỡ nhe răng cười.

- Anh cứ chọn tuỳ thích... Mỗi cuốn ba trăm yên.

Asakawa lựa tìm những tên phim kinh dị. Ngôi nhà địa ngục, Nỗi sợ màu đen, Thày phù thuỷ (The Exorcist: tên một bộ phim kinh dị Mỹ được dựng theo tiểu thuyết cùng tên của William Peter Blatty do William Friedkin làm đạo diễn), Điềm xấu (The Omen: loạt phim kinh dị Mỹ được dựng theo tiểu thuyết cùng tên của David Seltzer do Richard Donner làm đạo diễn)... toàn những phim gã đã xem hồi còn đi học. Chắc chắn còn có bộ phim đáng sợ mà gã chưa hề biết kia. Gã đưa mắt một lượt từ đầu đến cuối nhưng không tìm thấy thứ nào giống như vậy. Một lần nữa, gã rà soát lại toàn bộ tựa đề của hơn hai trăm cuộn băng. Thế rồi, ở góc dưới cùng, gã phát hiện thấy một cuộn băng không nhãn nằm đổ rạp sang bên. Nó không được dán bất cứ mẩu nhãn nào trong khi các cuốn băng khác có đầy tranh ảnh và những dòng tên phim.

- Cái đó là phim gì thế bác?

Gã bỗng nhận ra mình vừa gọi cuốn băng ấy là cái đó. Đâu còn cách gọi nào khác vì nó không hề có tên. Người quản lý nhíu mày bối rối rồi bật lên một tiếng hả không rõ ràng. Sau đó, ông ta cầm lấy cuốn băng.

- Chả có gì đâu.

... Sao cơ, không lẽ người đàn ông này biết nội dung của cuốn băng?

- Bác xem cái đó rồi à? – Asakawa hỏi.

- Cái này...

Người quản lý cau trán ra chiều khó hiểu. Vẻ mặt tựa như muốn nói, tại sao lại có thứ này ở đây.

- Nếu không phiền bác cho cháu mượn cuốn đó đi.

Thay cho câu trả lời, người quản lý vỗ đét vào đùi mình.

- À, tôi nhớ ra rồi. Cái này, tôi thấy nó rơi ở trong phòng. Tôi cứ đinh ninh nó ở trong đống băng của tôi nên mới mang về.

- Bác tìm thấy cái này ở B-4 phải không?

Asakawa chậm rãi hỏi như thể muốn xác nhận với đối phương. Người quản lý lắc đầu cười.

- Tôi làm sao nhớ được, đã hai tháng rồi còn gì.

Asakawa hỏi lại.

- Bác đã xem cuốn băng này chưa?

Người quản lý vẫn lắc đầu. Nụ cười biến mất khỏi gương mặt.

- Chưa.

- Bác cho cháu mượn cái đó.

- Anh định ghi hình sao?

- Vâng, cũng đại loại như thế...

Người quản lý liếc qua cuốn băng.

- Mất lẫy rồi, anh xem, cái lẫy chống ghi bị bẻ đi mất rồi.

Cũng một phần do rượu, Asakawa đột nhiên cảm thấy mất tự chủ. Đã bảo cho mượn thì mau đưa cho người ta mượn, lão già khốn kiếp này! Cơn nóng bốc lên khiến cho những lời lỗ mãng ấy bật ra trong đầu gã. Nhưng dù say đến đâu, gã cũng chẳng bao giờ dám tỏ thái độ hung hăng với người khác.

- Bác làm ơn đi, cháu sẽ trả lại ngay mà.

Asakawa cúi đầu. Người quản lý có vẻ không hiểu nổi tại sao vị khách kia lại quan tâm tới cái đó đến vậy. Phải chăng trong đó ẩn chứa những hình ảnh vô cùng thú vị? Chẳng hạn như một cuốn băng chưa kịp xoá... Người quản lý tiếc rẻ vì đã không xem nó lúc tìm thấy. Dù rất muốn xem ngay bây giờ, nhưng khách đã nài nỉ ông ta sao dám từ chối. Người quản lý đưa cuốn băng cho Asakawa. Gã định rút ví nhưng người quản lý xua tay.

- Thôi, thôi, khỏi tiền nong. Ai lại nhận của anh cơ chứ.

- Cảm ơn bác, cháu sẽ trả ngay.

Asakawa khẽ nhấc bàn tay cầm cuộn băng lên tỏ ý cảm ơn.

- Nếu hay nhớ đưa lại cho tôi sớm nhé.

Trí tò mò của người quản lý bị kích thích tột độ. Ông ta đã xem qua tất cả những cuốn có ở đây, vì thế chúng không còn là mối quan tâm đối với ông ta nữa.

... Lạ thật, tại sao ông ta lại bỏ qua cuốn đó? Một thứ rất tốt để tiêu sầu. Nhưng, cũng có thể chỉ là cuốn băng ghi lại một chương trình truyền hình vô vị.

Người quản lý vẫn tin rằng cuộn băng đó sẽ được trả lại.

Cuộn băng đã được tua sẵn về đầu. Đó là loại băng 120 phút thông thường, có thể mua ở bất cứ đâu, và đúng như lời người quản lý, lẫy chống ghi đã bị bẻ. Asakawa bật nguồn, đẩy cuộn băng vào trong. Gã ngồi khoanh chân ngay trước màn hình và ấn nút play. Có tiếng băng chạy. Nó đem đến cho gã niềm hy vọng rằng, chiếc chìa khoá mở cánh cửa của bốn cái chết đầy bí ẩn đang được cất giấu trong đó. Và gã bật nút play với mong muốn sẽ tìm ra manh mối, dù chỉ là chút ít. Gã không tin rằng có sự nguy hiểm. Chỉ xem thôi thì có gì mà nguy hiểm. Thoạt tiên, hình rung mạnh kèm theo tiếng réo, nhưng sau khi gã chuyển hệ mọi thứ lại đâu vào đó, bóng hình đen đặc. Đấy là cảnh đầu tiên của cuốn băng. Gã đưa mặt lại gần, ngỡ là bị hỏng vì không thấy tiếng phát ra. "Ta báo trước. Chớ nên xem cái này. Sẽ hối hận đấy." Lời của Iwata Shuichi chợt hiện lên trong óc gã. Làm sao phải hối hận. Gã quen rồi. Trước đây gã từng là phóng viên của ban xã hội. Gã không bao giờ hối hận cho dù phải xem những thước phim man rợ nhất. Gã có đủ tự tin.

Trên màn hình đen đặc, một chấm sáng nhỏ bằng đầu kim xuất hiện và nhấp nháy, nó lớn dần lên, nhảy sang phải rồi sang trái trước khi bị cố định vào góc trái. Sau đó, nó tách ra và tạo nên một bó ánh sáng có nhiều đầu, nó bò xung quanh như một con giun và cuối cùng biến thành những ký tự. Nó không phải là một dạng phụ đề. Đó là một dòng chữ rất xấu được viết bằng bút lông trắng trên nền giấy đen. Tuy vậy gã vẫn đọc được. "Phải xem hết" - một mệnh lệnh. Nó biến mất và dòng chữ tiếp theo hiện lên. "Ngươi sẽ bị người chết ăn thịt." Gã không hiểu lắm ý tứ của cụm từ người chết, nhưng bị ăn thịt thì không phải chuyện đùa. Có vẻ như liên từ nếu không nối giữa hai câu đã bị lược bớt. Nếu quả vậy thì đây là một lời đe doạ: Không được tắt máy khi đang xem, nếu không, ngươi sẽ gặp tai hoạ.

Dòng chữ Ngươi sẽ bị người chết ăn thịt lớn dần lên, đẩy những mảng màu đen ra khỏi khung hình. Màu đen chuyển sang màu sữa đục, một sự biến màu đơn điệu. Rất khó khẳng định màu sữa đục với những vệt loang lổ ấy là một tông màu tự nhiên, trông nó giống như rất nhiều ý niệm được vẽ chồng lên nhau trên một tấm canvas. Giống như sự vô thức đang uốn lượn, sầu não, rồi tìm thấy lối ra và sắp sửa trương lên; hay giống như sự sống đang kích động. Tư duy hàm chứa năng lượng, như loài thú, nó nuốt đầy bụng bóng tối. Thật lạ là gã không hề có ý định ấn vào nút stop. Không phải gã sợ người chết, mà bởi dòng chảy mãnh liệt của năng lượng khiến gã thấy dễ chịu...

Màu đỏ bắn toé ra giữa cái màn hình gần như chỉ có trắng và đen. Cùng lúc, tiếng đất rền từ đâu đó vọng tới. Âm thanh ấy gây cho gã cái cảm giác rằng nó không có hướng, không phải nó phát ra từ chiếc loa nhỏ kia, đến mức gã cảm thấy một thứ ảo giác như thể toàn bộ ngôi nhà đang rung chuyển. Dòng dung dịch đỏ lòm nhầy nhụa bùng nổ và bắn tung toé, có những lúc như muốn che kín cả màn hình. Từ màu đen, chuyển sang màu trắng, rồi màu đỏ..., chỉ toàn sự biến đổi đầy kích thích của màu sắc chứ chưa hề thấy một quang cảnh tự nhiên nào xuất hiện. Những ý niệm trừu tượng hoá cùng sự biến đổi sống động của màu sắc tác động mạnh vào các tế bào não khiến gã thấy mệt. Thế rồi, như thể đọc được ý nghĩ của người xem, màu đỏ biến mất khỏi màn hình, mở ra khung cảnh một trái núi, mà chỉ cần nhìn qua cũng biết là núi lửa, với đỉnh núi thoai thoải. Từ miệng núi lửa, một cột khói trắng cuồn cuộn phun lên nền trời nắng chói. Máy quay được đặt dưới chân núi, và chân máy bị bao quanh bởi dòng nham thạch màu vàng xám đang ùng ục cháy.

Lại chìm vào bóng tối. Bầu trời trong xanh phút chốc bị nhuộm đen, sau đó vài giây, dòng dung dịch đỏ lòm bắn toé ra từ chính giữa màn hình rồi chảy xuống. Vụ nổ thứ hai..., những tia dung dịch bị văng ra bốc cháy đỏ rực, và nhờ thế, gã có thể phân biệt được những đường nét mờ tỏ của ngọn núi. Nó đã cụ thể hơn so với hình ảnh trừu tượng lúc trước. Rõ ràng đây là cảnh về một vụ nổ núi lửa, một hiện tượng thiên nhiên và có thể giải thích được. Dòng dung nham từ miệng núi lửa tràn xuống khe núi và tiến dần về phía gã. Máy quay đang đặt ở đâu? Nếu quay từ trên không thì là chuyện khác, chứ vẫn giữ nguyên vị trí vừa rồi sẽ không tránh khỏi bị dung nham nuốt chửng. Tiếng đất rung chuyển lớn dần và ngay trước khi dòng dung nham lấp kín màn hình, cảnh quay đột ngột thay đổi. Các phân cảnh không hề có tính liên tục và luôn thay đổi rất đột ngột.

Chấm đen giữa nền trắng đậm dần và hiện lên thành các ký tự. Nét viết hơi nhoè nhưng vẫn có thể nhận ra chữ Yama. Những chấm đen lớn nhỏ bắn đầy xung quanh các con chữ, tựa như ngòi bút đẫm mực đã bị lia rất mạnh. Các ký tự đứng im và màn hình cũng bất động.

Lại một sự thay đổi đột ngột nữa. Hai con xúc xắc bên trong cái bát đáy tròn đúc bằng chì đang chạy vòng quanh. Màn hình màu trắng, lòng cái bát chì màu đen, chỉ có một chấm của các con xúc xắc là màu đỏ. Đây là ba màu xuất hiện nhiều nhất. Hai con xúc xắc chạy chầm chậm không một tiếng động rồi dừng lại: một chấm và năm chấm. Một chấm đỏ, và năm chấm đen trên mặt trắng của các con xúc xắc... Nó có nghĩa gì?

Cảnh tiếp theo. Lần đầu tiên có con người xuất hiện. Một bà lão mặt mày nhăn nhúm ngồi khòng lưng trên hai manh chiếu, hai tay chống lên đầu gối, vai trái hơi nhô ra, mặt nhìn thẳng và đang chậm rãi nói. Vì mắt này to hơn hẳn mắt kia nên mỗi lần bà lão chớp mắt trông không khác gì đang nháy mắt.

"Kể từ... thế nào? Cháu mà... nước... quỷ ác... Phải cẩn thận... nghe chưa. Sang năm,... sinh con. Cháu gái... nghe lời bà nói. Không có gì..."

Bà lão chỉ nói có vậy với bộ mặt vô hồn, rồi đột nhiên biến mất. Có nhiều tiếng không rõ nghĩa. Nhưng không hiểu sao gã cảm thấy như thể bà lão đang thuyết giáo. Bà ta bảo cẩn thận điều gì nhỉ? Rốt cuộc bà lão này đang nói với ai và đang nhìn vào ai?

Khuôn mặt của một đứa trẻ sơ sinh choán hết màn hình. Có tiếng khóc chào đời từ đâu đó phát ra. Không phải từ đôi loa của ti vi. Mà từ rất gần, ngay bên dưới gã. Gã đang ở cực gần tiếng khóc. Trên màn hình xuất hiện cánh tay đang bế đứa trẻ. Bàn tay trái đỡ dưới đầu, bàn tay phải vòng qua lưng, xem ra vô cùng cẩn thận. Đôi bàn tay rất đẹp. Asakawa nhìn như bị thôi miên, và không biết tự lúc nào cánh tay gã đã đưa thành tư thế giống như của nhân vật trong kia. Gã giật mình rụt tay lại. Vì gã cảm nhận thấy. Sự nhớp nháp của nước ối hay của máu, và sức nặng của một cục thịt bé nhỏ. Asakawa vung hai tay ra như thể để ném nó đi và đưa lòng bàn tay lên mặt. Mùi vẫn còn đọng lại. Mùi máu nhạt, không biết là của bào thai, hay là của... Có cả cảm giác ươn ướt trên da. Thế nhưng, bàn tay gã không hề ướt. Asakawa quay lại màn hình. Vẫn là khuôn mặt của đứa trẻ. Mặc dù đang khóc nhưng nét mặt đứa trẻ vẫn tràn đầy vẻ ôn hoà, cơn run vì khóc truyền xuống háng khiến cả cái vật nhỏ bé kia cũng rung lên.

Cảnh sau đó là một trăm bộ mặt người. Bộ mặt nào cũng chứa đầy sự căm tức và hằn học, ngoài ra chẳng còn có đặc điểm đáng chú ý nào khác. Những bộ mặt như được sơn lên một tấm ván phẳng lùi dần về phía sau màn hình. Thế rồi, khi từng bộ mặt thu nhỏ lại thì cùng lúc có vô số những bộ mặt khác được nhân lên tạo thành một đại quần thể. Lạ một điều là cái đại quần thể ấy chỉ có từ cổ trở lên, nhưng những âm thanh mà chúng phát ra buộc người ta phải công nhận đó là một đại quần thể. Các bộ mặt với cơ man những cái miệng đang gào thét điều gì đó, đồng thời mỗi lúc một nhiều hơn và nhỏ dần đi. Asakawa không nghe được những điều chúng nói. Sự ầm ĩ của một đám đông, nghe như những tiếng la ó hay chửi rủa. Chứ rõ ràng không phải những lời hoan nghênh, tán thưởng. Rồi mãi gã cũng nghe được một tiếng rành rọt: "Đồ dối trá!". Sau đó là một tiếng nữa: "Quân lừa đảo!". Số lượng những bộ mặt có lẽ đã vượt quá một nghìn. Vậy mà chúng vẫn tiếp tục sinh sôi, và tỷ lệ thuận với điều đó, những tiếng nói cũng to lên. Khi con số vượt qua một vạn, chúng biến thành những hạt nhỏ màu đen lấp kính cả màn hình, bóng hình biến thành thứ màu tựa như trạng thái bị tắt nguồn, mặc dù vậy những tiếng nói kia vẫn không dứt. Thế rồi cuối cùng những tiếng nói cũng biến mất và chỉ còn một chút dư âm trong tai gã. Cứ như vậy một lúc lâu như thể màn hình đang đứng im. Asakawa tự dưng cảm thấy bất nhẫn. Gã tưởng tượng như đó là những lời thoá mạ dành cho chính gã...

Màn hình chuyển sang cảnh khác, một chiếc ti vi trên một chiếc giá gỗ. Đấy là kiểu ti vi 19 inch đời cũ với núm chỉnh kênh hình tròn và một bộ ăng-ten râu đặt trên nóc tủ gỗ. Không phải kịch trong kịch mà là ti vi trong ti vi. Chiếc ti vi ở bên trong vẫn chưa có hình gì. Dường như nó đang bật vì đèn báo bên cạnh núm chỉnh kênh sáng đỏ. Màn hình của chiếc ti vi trên màn hình rung rung. Sau đó nó trở về trạng thái cũ rồi lại rung rung. Khoảng cách giữa các lần ngắn dần, rồi một con chữ hiện ra, khá mờ. Hình như là chữ Sada. Thỉnh thoảng, con chữ giật giật, méo mó rồi mờ thành chữ ada và biến mất. Nó giống như cái cách một con chữ bằng phấn trắng được viết lên bảng đen bị xoá đi bởi một chiếc giẻ lau thấm nước.

Giữa lúc ấy, Asakawa bị một cảm giác khó thở kỳ lạ xâm chiếm. Gã nghe thấy nhịp tim, cảm thấy áp lực của máu trong thành động mạch. Sau đó là mùi, cảm giác, vị chua ngọt kích thích đầu lưỡi. Gã không hiểu nổi bằng cách nào mà một dạng vật chất trung gian ngoài hình ảnh và âm thanh có thể kích thích vào các giác quan của gã.

Bất thình lình, khuôn mặt một người đàn ông xuất hiện. Không giống với những hình ảnh trước, người đàn ông này rõ ràng đang sống, sức sống gõ nhịp trong con người anh ta. Bỗng nhiên gã có ác cảm. Gã không hiểu tại sao mình lại thấy ác cảm. Anh ta không đến nỗi quá xấu xí. Mái trước hơi hói, nhưng dù sao, cũng thuộc loại đàn ông tạm được. Song có điều gì đó rất đáng sợ trong đôi mắt anh ta: đôi mắt của loài thú đang rình mồi. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt anh ta. Anh ta thở hổn hển, mắt nhìn lên và cử động thân mình theo một nhịp điệu. Sau lưng anh ta là những lùm cây thưa thớt, ánh trời chiều chiếu xuyên qua những kẽ cây. Người đàn ông đưa mắt xuống, nhìn về phía trước mặt thì gặp đúng ánh mắt của Asakawa. Gã và người đàn ông nhìn vào mắt nhau một hồi lâu. Cảm giác khó thở gia tăng khiến gã muốn quay đi chỗ khác. Người đàn ông sùi bọt mép, mắt đỏ ngầu, cổ từ từ bạnh ra rồi thoắt biến mất khỏi phía trái màn hình, sau đó, chỉ còn lại bóng đen của những thân cây. Có tiếng hét dội lên từ đáy bụng. Cùng với tiếng hét, khuôn mặt người đàn ông hiện trở lại, bắt đầu từ vai rồi lên đến mang tai. Vai anh ta để trần. Mỏm vai phải bị khoét mất vài phân thịt. Những giọt máu nhỏ ra từ đó bị hút về phía máy quay, lớn dần lên, va vào ống kính và làm nó bị nhoè đi. Như thể chiếc máy quay biết chớp mắt, màn hình vụt tối một lần, rồi hai lần, sau đó ánh sáng trở lại với một hình ảnh đầy màu đỏ. Đôi mắt người đàn ông đằng đằng sát khí. Cả khuôn mặt và mỏm vai cùng tiến đến sát màn hình, phần xương trắng hếu dưới lớp thịt vừa bị khoét mất lộ ra. Lại là khung cảnh của những lùm cây. Bầu trời xoay đảo. Dưới màu sắc của bầu trời đang lẫn dần vào bóng tà, đám lá cỏ khô kêu lạo xạo. Gã nhìn thấy đất, thấy cỏ, rồi lại thấy bầu trời. Có tiếng khóc của một đứa trẻ sơ sinh ở đâu đó. Liệu có phải là của con trai người đàn ông ban nãy...? Chẳng mấy chốc, bóng tối viền quanh lấy màn hình và từ từ thu hẹp vòng vây ấy lại. Ranh giới giữa sáng và tối khá rõ ràng. Chính giữa màn hình, trong bóng tối, một mặt trăng tròn hiện lên trống hoác. Có khuôn mặt của người đàn ông trong đó. Từ mặt trăng, có một tảng gì đó cực lớn rơi xuống gây ra một tiếng động trầm đục. Một tảng nữa, rồi lại một tảng nữa. Kèm theo mỗi tiếng động, hình ảnh lại giật mạnh, chao đảo. Có tiếng thịt bị dập, đằng sau đó là bóng tối thực sự. Tuy vậy, vẫn có tiếng tim co bóp. Máu đang chảy trong huyết quản ùng ục. Cảnh phim đó kéo dài khá lâu. Bóng tối ấy làm người ta tưởng như nó sẽ không bao giờ chấm dứt. Chữ lại hiện lên giống như lúc đầu. So với những dòng chữ nguệch ngoạc như của một đứa trẻ mới tập viết ở cảnh đầu, những dòng chữ ở cảnh cuối khả dĩ hơn rất nhiều. Những ký tự màu trắng mờ tỏ lần lượt hiện lên rồi biến mất.


Đọc tiếp: Ring - Vòng tròn ác nghiệt - Phần 4
Home » Truyện » Truyện Ma » Ring - Vòng tròn ác nghiệt
↑ Trên cùng
Copyright © Thich123.net
Liên kết © Uhm123.net - HIM18.COM