XtGem Forum catalog

Các bạn truy cập vào HIM18.COM để đọc truyện MỚI nha. Mong các bạn ủng hộ website mới này!

Nỗi Ám Ảnh - phần 3

Chuyện thứ tám: Thần giữ của

Trải qua hơn 10 năm yên ổn làm ăn, dân làng khấm khá lên trông thấy. Thế rồi bất ngờ, Chiến Tranh Biên Giới nổ ra, người Trung Quốc đang ở Việt Nam đều trốn ra nước ngoài hoặc về nước hết. Ở làng em thì chi có mỗi minh ông K là người Tàu, ông cũng định về nước luôn vì Cách Mạng Văn Hóa đã kết thúc được vài năm, giờ về chắc không sao. Nhưng dân quê nghĩ cái ơn ông khó nhọc vì làng khi trước nên cứ nhất quyết giữ ông ở lại. Chính quyền xã nhiều lần đến bức bách ông vì tội "tuyên truyền mê tín dị đoan, chống phá thành quả Cách Mạng" nhưng phép vua thua lệ làng, người quê em tìm mọi cách bảo vệ ông K, xã thấy thế thì cũng không dám làm căng, hơn nữa ông cũng chưa làm gì có hại cả, và họ còn sợ những mối quan hệ của ông K, dây giưa vào với ông có khi mất luôn cả cái ghế ngồi.

Chiến tranh kết thúc, nhiều người trẻ tuổi về làng, mang theo những tri thức mới, hiểu biết mới. Trong mắt họ, những con người như ông K, những ngôi đền, ngôi chùa trong làng đều là tàn dư của chế độ phong kiến hủ bại, làm chậm quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng mà người làng ai cũng kính trọng ông, ông lại có ơn với nhiều ông lắm chức quyền nên nếu gây khó dễ cho ông thì thật là vô phúc chạm phải vây rồng.

Bỗng một ngày, một đoàn khảo sát địa chất cả tây cả ta về làng, họ vào ngọn núi phía nam làng, đo đạ, lấy mẫu đất ở trong đó suốt hai ngày mới ra, lúc ra, ông nào ông nấy mặt tươi rói như bắt được vàng. Dân làng chẳng biết mấy ông định làm gì nên cũng mặc, nhưng với những cụ già cao tuổi thì các cụ biết họ định làm gì, ngày xưa, khi cách mạng về, các nhà địa chủ trong làng đều đem vàng bạc, của cải giấu vào trong núi đấy. Suốt hơn 40 năm nay chẳng ai dám động vào vì họ biết địa chủ không tốt đến thế, tự nhiên đem vàng giấu không vậy, ắt là họ còn phải yểm bùa, đặt tinh độc vào trong để bảo vệ, lắm kẻ còn đồn thổi rằng trong đó có cả Cô Yêu- thần giữ của.

Người ta bảo, thần giữ của là một dạng phép của người Tàu, đem một cô gái đồng trinh, bỏ vào trong hầm, trói vào một cái ghế, cho ăn bùa bả gì đó trước rồi nhét sâm quý vào miệng, cốt để duy trì mạng sống. Sau rồi cứ thể bỏ rũ xác trong đấy. Từ đó trở đi, chỉ những người mang dòng máu của nhà chủ mới được vào kho tàng lấy của, còn người ngoài vào thì sẽ bị Cô Yêu vật chết ngay.

Chỗ ngọn núi đó, quê em goi là núi Cô Yêu, hàng năm cứ đến ngày lập thu là cúng cấp để tỏ lòng kính sợ, mong cô đừng có làm khó dễ người có việc qua núi. Mọi chuyện cũng chẳng có gì đáng nói nếu ma- người riêng biệt, nước sông không phạm nước giếng. Bỗng một đêm mùa đông năm 84, một đoàn xe ben, máy xúc, xe chở hàng ùn ùn kéo vào núi Cô Yêu. Sáng hôm sau, dân làng biết được thì họ đã dựng lều xong rồi, hỏi thì một anh kĩ sư đưa ra tờ giấy, nói đây là đất thuộc quyền quản lý của Nhà Nước nên Nhà Nước cho người đến khai thác đá. Tiếng là vậy nhưng ai cũng biết tỏng mấy ông che mắt cấp trên, nói là khai thác đá nhưng thực chất là đến đào của rồi ăn chia nhau. Thế rồi mặc cho dân ngăn cản, máy xúc đã bổ nhát gầu đầu tiên xuống nền đất. Nhưng nhát gầu vừa bổ xuống thì chim chóc quanh núi bay loạn xạ, kêu váng trời, thú rừng cũng thi nhau chạy trốn, bỗng một con trăn gió to như cái cột nhà vít dây, đu mình từ cây này sang cây khác, tiếng rít gió ù ù, nghe mà ghê người. Thế là từ dân cho đến cán bộ đồng loạt tháo chạy sạch, công nhân, kĩ sư chạy hết, bỏ cả máy móc, thiết bị. Đến trưa thì chẳng biết ai bảo mà mấy ông lại lên núi, tiếp tục đào xới. Dân làng ức lắm nhưng không dám lên núi vì ai cũng sọ mang vạ vào thân, chỉ rủa thầm để vài đứa bị Cô Yêu vặn ngược cổ rồi mới sáng mắt ra.

Năm ấy, ông K cũng đã già lắm rồi, lại thêm lang bạt nhiều năm, sương gió đời người nên giờ ông ốm luôn, toàn ở bệnh viện tỉnh nhiều hơn ở nhà. Mấy tuần nay, ông lại lên cơn hen nên hôn mê bất tỉnh, ở viện được vài ngày rồi. Vậy nên ông không biết ở làng có chuyện xảy ra, dân làng cũng ngại, kẻ thì chẳng muốn dựa mãi vào mấy ông thầy phù thủy, người thì sợ làm ảnh hưởng đến sức khỏe ông nên chẳng ai dám lên viện thông báo.

Nhóm kĩ sư khai thác đã kia mới làm việc được bốn ngày mà đã thấy "thành quả", hôm đầu tiên, họ đào lên được một hòm toàn tiền Đông Dương, tính giá trị ra cũng phải tới vài trăm triệu. Hôm tiếp theo thì đào lên được một cái hũ lớn, cả đám ngừng làm, hè nhau nạy cái nắp ra xem được bao nhiêu vàng. Nhưng vừa nạy nắp ra thì ông công nhân cầm xà beng ngã lăn ra đất, tai, mũi mồm trào máu ra, mắt trắng dã, trợn trừng chỉ lên ngọn cây, không nói được câu nào rồi chết tại chỗ, trong hũ là một cái đâu người còn tươi nguyên Thợ thuyền thấy vậy cũng kéo nhau bỏ đi quá nửa, chỉ còn lại toàn những anh có máu liều. Ngay đêm hôm đó, lại có chuyện xảy ra, một anh công nhân đi tiểu đêm phát hiện ra một ông kĩ sư già đã treo cổ chết tự lúc nào. Cả trại xúm vào gỡ ông ý xuống thì không đã muộn, không cứu được nữa. Liên tiếp mấy ngày sau, máy xúc cứ vừa giơ gầu lên định múc thì lại chết máy, xe tải xe ben thì không cái nào khời động được, đã thế đến đêm, thợ ngủ ở đó toàn thấy có mấy ông mặc quan phục ra vụt thước vào đầu đuổi đi, cầm đầu đám này là một cô gái tuổi mới đôi mươi, mặc bộ áo chẽn màu trắng, người đẹp như ngọc. Mà sáng tỉnh dậy thì thấy anh nào anh nấy đều có mấy vết lằn đỏ trên mặt với cổ. Được hai tuần sau, cả thợ lẫn kĩ sư đều đi hết, lần này phải gọi phà vào chở hết cả xe ben, máy xúc đi. Đoàn phà cứ thế men dần theo sông mà đi, đi đến đoạn sông chảy ngầm trong lòng núi thì tự nhiên phà rung mạnh một cái, tý thì lật, nhưng sau rồi lại yên, cả đoàn phà vào bờ bên kia an toàn, còn mỗi cái phà chở anh kĩ sư trưởng và công nhân lâu năm là còn đang cách bờ vài chục mét. Thốt nhiên, cả cái phà lật ùm xuống, may mà ai cũng biết bơi nên người này kéo người kia vào bờ. Thốt nhiên, anh kĩ sư hét lên thất thanh rồi như bị cái gì kéo tuột xuống nước, mọi người trên bờ nghi là do phà chìm nên hút xuống, vội giục công nhân bơi nhanh vào bờ, chứ bây giờ bơi ra cũng chẳng cứu được, có khi còn bị hút theo. Lúc lên bờ, mấy người bên cạnh anh kĩ sư bảo rằng đang bơi thì tự nhiên thấy cái gi lành lạnh trơn trơn bơi lươn qua người, cơ mà nó to lắm, phải bằng cỡ cái cột nhà là ít. Còn những người đứng trên chỗ cao thì quả quyết rằng thấy một cái bóng đen xì, dài ngoằng, từ từ bơi về phía mọi người, lúc đó chỉ muốn hét lên mà cứ như bị cái gì bóp họng lại, không tài nào phát ra thành tiếng được.

Sau khi mấy ông kĩ sư bỏ đi, người làng em ai cũng nghĩ sẽ lại được trở về những ngày cày cấy thanh bình trước đây. Nhưng chuyện vốn dĩ chẳng hề đơn giản như vậy bởi, giờ, nước sông và nước giếng đã phạm nhau rồi.

Chuyện thứ chín: Quýt làm cam chịu

Kể từ sau cái đợt kĩ sư, công nhân vào đào xới ở trong núi Cô Yêu rồi bỏ đi vì sợ quá không ở được. Bẵng đi 2 tháng, trong làng bắt đầu có chuyện.

Lúc bấy giờ, ở quê em đang có mốt xem phim chưởng nhập lậu từ Trung Quốc về. Tối nào trai làng cũng kéo nhau lên quán bia nhà ông C thọt để xem, đến tầm 11h đêm thì về. Phải nói lúc đó, ở quê như có bệnh kiếm hiệp, từ truyện đặt tên cho con những cái tên đậm chất Kim Dung như: Nguyễn Bá Thông, Trần Tĩnh, Phạm Trùng Dương, Lê Hồ Xung,…. Rồi thì người người kiếm hiệp, nhà nhà kiếm hiệp, ra đồng thì trai làng cuốc đất cũng tụ khí đan điền, dồn huyệt Nhâm Đốc, về nhà thì lắm anh cứ ngồi đần mặt ra cả ngày để luyện nội công, cá biệt có cả chuyện ông chống tát xưng mặt bà vợ chỉ vì bà vợ dám chửi Hoàng Dung là gái lẳng lơ bỏ cha theo trai. Thôi thì cả làng cứ gọi là bát nháo cả lên, nhí nha nhí nhố. Các cụ thì chỉ biết lắc đầu mà than thở vì bây giờ bọn con cháu cứ như bị ma nhập, dở dở khùng khùng, mà cái thứ ma này thì đố thầy nào trị được, chỉ rủa bọn làm phim thâm nho, đầu độc cả lũ thanh niên.

Chuyện bắt đầu từ đêm rằm tháng giêng, một đám trai làng vừa đi xem phim về, còn đang bàn tán sôi nổi thì thằng Y., mới 5 tuổi đi theo anh trai xem phim bỗng chỉ tay về phía bụi tre, ngọng nghịu nói: "Các anh ơi! Cô cô kìa, cô cô đang khinh công trên ngọn cây kìa!" Cả đám nhìn theo hướng tay thằng bé thì tất cả đang cười nói bỗng im bặt, mặt tái như ga cắt tiết. Ở trên ngọn tre, một người con gái mặc bộ áo trắng toát đang đứng phất phơ trên đó, cả đám lại kinh hãi một lần nữa khi thấy cô gái nhìn về phía mình, cười khanh khánh, tiếng cười vang vọng mãi như không dứt. Xong rồi chẳng ai bảo ai, cắm đầu cắm cổ chạy một mạch về nhà, sáng sau kể lại thì các cụ bảo đó là Cô Yêu, nhưng mà Cô Yêu thì toàn ở trong núi canh của, ra ngoài làng làm gì?

Tất cả cũng chỉ có vậy thì cũng chẳng có gì đáng kể cho lắm. Mấy bữa sau thì nhà ông Q, con thầy S ngày xưa làm đám cưới cho cháu, cả làng cùng đến chúc mừng, ai cũng khen hai đứa đẹp đôi, trai anh hùng gặp gái thuyền quyên. Đến tối, dân làng về gần hết, chỉ còn mấy nhà hàng xóm gồm nhà em, nhà ông T và nhà ông D là ở lại giúp ông dọn dẹp, dọn dẹp xong thì tất cả cùng ngồi trà nước phía ngoài hiên, để dành cả dãy nhà sau cho đôi vợ chồng trẻ. Đang lúc trà dư tửu hậu vui vẻ thì tự nhiên hai con chó mực xích ngoài hiên lồng lên, cắn nhát gừng ra phía nhà sau, rồi gà vịt bay loạn xạ, kêu quang quác khắp vườn, con trâu cột ở sau đồng rơm cũng khua sừng lộp cộp, chỉ muốn dứt thừng mà chạy. Đột nhiên, phía nhà sau có tiếng hét của anh M, mọi người vội lao nhanh vào nhà trong xem sự thể ra sao. Đập vào mắt mọi người là một cảnh tượng kì dị vô cùng, anh M đang tìm mọi cách để giữ chân chị U- vợ mình, còn chị U thì cứ tìm mọi cách để lao xuống cái giếng khơi ngoài sân, bất chợt, ông X hàng xóm kĩnh hãi chỉ tay lên nóc nhà, la lên :"Ối giời ôi!", mọi người nhìn theo thì thấy trên nóc nhà, con Ki, con chó đã bị làm thịt từ lúc sáng, vậy mà giờ nó vẫn còn đó, lại đang đứng hai chân, đầu đội cái khăn xếp của ông Q, hai chân trước túm mấy cây hương, đang nhảy tưng tưng trên nóc nhà, mọi người thấy vậy thì ai cũng khiếp, đứng đờ người ra. Anh M hét toáng lên: Các chú thím cứu vợ cháu với!", lúc này mọi người mới định thần lại, nhào ra giúp anh M ôm lưng chị U kéo lại, bỗng ông Q chạy lên nhà trên, một lúc sau ông trở lại, tay cầm cái kiếm gỗ của bố ông, ông S, cầm lên chỉ vào con cho rồi lại chỉ vào cái giếng, lầm nhẩm mấy câu rồi bẻ đôi cây kiếm, một nửa vứt xuống giếng, một nửa quăng lên nóc nhà. Ông vừa làm xong thì chị U giật nảy người lên vài cái rồi sùi bọt mép, xỉu luôn, còn con chó trên nóc nhà thì kêu ẳng một tiếng, lao luôn qua hàng rào sau vườn rồi chạy mất. Anh M lúc này cứ ôm người chị U mà lay, gọi em ơi em ơi, rồi anh lại quay sang bố: "Bố ơi nhà con sao thế này hả bố? Bố ơi!", ông Q bảo anh đưa chi vào trong rồi bóp dầu cho chị đi, sáng mai là khỏi.

Lúc lên nhà trên, mọi người xúm vào hỏi ông sao ông lại biết phép phù thủy thì ông trả lời là do bố ông dạy, nhưng học chưa đến nơi đến chốn thì bố ông mất nên thôi, từ ngày ấy đên giờ ông chưa từng dám dùng phép, hôm nay vì cấp bách quá nên phải dùng vậy thôi. Sáng hôm sau, từ lúc gà chưa gáy sáng thì mọi người đã bị dựng dậy bời tiếng kêu làng phát ra từ phía nhà bà P bán dưa cà muối ở xóm giữa. Mấy nhà hàng xóm chạy sang xem có chuyện gì thì thấy bà P đang ngồi thu lu bên bàn nước, đầu tóc bù xù, nhìn lên giường thì thấy ông A chồng bà đã chết, người vẫn còn đắp chăn. Mọi người hỏi sao thì bà P nghẹn ngào: "Nào tôi biết tại sao! Sáng nay lúc tôi đi mua lòng lợn, cổ hũ về cho ông ý ăn sáng, lúc về gọi ông ý dậy mà mãi không thấy thưa, tôi mới mở chăn ra thì….Ối ông ơi là ông ơi! Sao ông bỏ tôi lại ông ơi" Cả làng ai thấy thế cũng sụt sùi, ông A và bà P trước nay rất tốt, hòa thuận với xóm làng, ai cũng quý, con cháu thì đứa nào cũng học cao rồi lên thành phố, mỗi tháng lại vè nhà đem tiền cho bố mẹ. Hai ông bà thì yêu nhau sâu đậm từ hồi còn trẻ, đến tận bây giờ vẫn cứ quấn lấy nhau, ông đi đâu thì bà theo đó, bà đi chợ thì ông lóc cóc đạp xe chở bà đi, hàng xóm xung quanh chưa bao giờ thấy hai ông bà nói nặng với nhau câu nào. Có thể nói vợ chồng ông bà có một cuộc sống đáng để nhiều người mơ ước.

Sau đám tang ông A, làng em liên tiếp xảy những cái chết bất ngờ, tai nạn có, không rõ nguyên do cũng có. Đầu tiên là anh G, đang làm cầu đường trong Thanh Hóa thì tự nhiên lại bị xe lu cán chết. Mấy anh làm cũng bảo đang ngồi nghỉ chờ xe lu cán xong đường thì tự nhiên anh G lao ra đứng ngày trước xe lu, người lại vội tắt máy đi thì đã muộn, anh G đã bị cán quá nửa người, anh vẫn sống nhưng không hề kêu đau lấy một tiếng, cứ cười xong lại khóc, trên đường đưa vào viện cũng vẫn thế, rồi anh chết trong viện, miệng vẫn nở nụ cười. Sau đó là ông N, thầy pháp, đang ngồi uống nước bên vệ đường tự nhiên ông đứng phắt dậy, lăm lăm kiếm nhìn quanh, tối hôm đấy về nhà ông chẳng bệnh gì mà tự nhiên mất. Rồi lại đến ông A, buổi tối làm lễ cho đám tang ông N thì tự nhiên ông A rú lên rồi ngất đi, máu từ tai với mồm cứ phụt ra như suối, trước lúc chết, ông A chỉ tay về hướng núi Cô Yêu rồi phều phào nói: "Bằng mọi giá phải gọi được ông K về, bảo ông ý là " Hỏng mất trấn phía Nam rồi, hỏng mất rồi!" Mọi người còn chưa hết kinh hãi thì từ ngoài vườn, một giọn cười the thé vọng vào, bát hương đặt trên bàn thờ tự nhiên bốc cháy phừng phừng, lửa đỏ rực. Con vẹt mà ông N nuôi tự nhiên đạp cửa lồng bay ra, vừa bay vừa hét :"Trả đầu cho tao! Trả đầu cho tao !", rồi nó đậu lên cái ảnh của ông N đang đặt trước quan tài, con vẹt chõ mõ ra phía cửa sổ mà mắng chửi, mọi người nhìn ra người cửa sổ, mấy người yếu bóng vía tý nữa thì xỉu. Bên ngoài cửa sổ, một cái bóng đen xì, đen đặc hơn cả bóng tối xung quanh đang vin tay vào cửa sổ, mắt đỏ, rực, to như cái đèn lồng đang nhìn chằm chằm vào trong nhà. Đột nhiên ông A bật dậy, ném thẳng ba đồng tiền Vạn Lịch về phía cái bóng rồi lại nằm xuống đất như cũ, cái bóng thì gào lên mấy tiếng như tiếng hổ gầm, rồi chạy thăng vào trong núi (Núi này trong có cái động gì thì em quên tên rồi, chỉ nhớ là tên động đẹp lắm, Khuyên Dương hay Tam Nhật Dương gì đó, cái động này như là thánh địa của loài hổ, hổ ở trong này rất khác với hổ thường là chúng săn theo bầy đàn, tới tận bây giờ vẫn chưa có ai dám bén mảng vào khu vực quanh động này). Dân làng thấy thế thì khiếp, vội cắt cử toàn thanh niên trai tráng ở lại đi tuần đêm giữ làng, còn người lớn tuổi thì sẽ lên viện xem tình hình ông K thế nào rồi tính cách.

Mấy ngày sau, lại có thêm hai người chết bất đắc kì tử, cả làng trắng một màu khăn tang, thợ mộc làm quan tài không kịp, phải sang cả làng bên mua. Đúng lúc đó thì ông K về,…

Chuyện thứ mười : Gửi xương tàn nơi đất khách

Sau những cái chết, cả làng đâu đâu cũng là khăn tang, dân quê hoang mang cực độ thì ông K về. Đợt này về, nhìn ông K yếu hơn trước nhiều lắm, một người chân đi mòn cả Trung Quốc, lang bạt đến cả những khu tự trị xa xôi giờ chỉ còn là một ông già râu tóc bạc phơ, chống gậy lọc cọc. Ngay cả túi đồ nghề phù thủy của ông, ông cũng không mang được nữa, phải nhờ một bác xách hộ. Ngay từ lúc đặt chân đến đầu làng, ông K đã đứng khựng lại, ông bảo cụ D đi cùng : "Khiếp quá ông ạ! Khiếp quá! Sau mà làng ta nó ngập ngụa toàn là yêu khí thế này!", nói đoạn, ông rút trong túi ra một nắm bùa, bảo hai anh thanh niên đi cùng đem dán ở những ngã ba, cầu, dốc trong làng. Rồi ông quay sang bảo bác D làm hậu cần đem cơm trắng, muối, ra rắc ở những chỗ có bùa, rắc đến chỗ nào thì đốt tiền vàng rồi khấn cô hồn đến đấy, ngày hôm đó, chỉ riêng chỗ tiền vàng đốt trên đường như vậy cũng phải đến hai thúng.

Vào trong làng, người nhà của những người chết vừa thấy ông K thì lại òa khóc, họ khóc không phải vì ông K về muộn, họ khóc là vì nhìn ông xanh xao quá, ông ốm quá mà vẫn lọ mọ về đây. Từ lúc nào, vị trí của ông K trong lòng dân làng không còn đơn thuần là một ông thầy phù thủy tài phép nữa mà còn là chỗ dựa tinh thần cho họ mỗi khi làng có biến cố. Ông K vội an ủi mọi người rồi đi nhanh lên đình, nơi các cụ bô lão đang họp, nhưng vì ông vốn không phải là dân gốc Việt nên không dám vào vội, ông đứng xin đài trước cổng đình ba đài, rồi ông mới dám vào. Sau khi ổn định xong, ông K lên tiếng :

- Mọi tai họa làng ta đều bắt đầu từ cái đợt kĩ sư vào đào xới trong núi Cô Yêu, làm động đến nhiều thứ. Tôi bấm độn và xin quẻ thì biết được rằng trên đó vốn chứa rất nhiều vàng bạc, châu báu do địa chủ chôn dấu nhiều đời. Người yểm cái kho báu này cũng là một thầy pháp gốc Hoa như tôi, lại là người của gia tộc Vương bên Tứ Xuyên, cùng đứng vào hàng Thiên Đẳng như tôi. Nhà này và nhà tôi vốn là đối thủ với nhau từ bao đời trước, nên cách yểm của ông này gần như là khắc chế phép của tôi nên tôi cũng không chắc có giải được cái hạn này cho làng không.

Tất cả những người ngồi trong đình nghe đến đây thì đều sợ đến run người, ông K đã thuộc vào hàng phù thủy cao tay như thế mà còn kêu khó thì bây giờ biết trông vào ai. Bỗng cụ H đứng lên, hỏi: " Thế ông thử kể tường tận xem cái phép đó nó làm sao, muốn giải thì còn cần những gì, xin ông cố cứu cho làng!"

Ông K đáp:" Phép của tôi không giải được nhưng phép của ông L lại giải được. Vì nghề phù thủy tuy chung nguồn nhưng lại có nhiều dòng, dòng này lại khắc được dòng kia. Nhưng mà ông L chết rồi, lại chẳng có người nối nghề nên thật là hết cách.". Bất chợt, cụ H kêu : "Thế thì còn cách! Hồi trước lúc tôi cùng đám thanh niên dọn đống cháy nhà lão L thì thấy được quyển sách bùa phép của lão, tôi sợ đem ra ngoài để ai đọc được thì gây vạ nên khóa lại cất ngày trong đình này! Cơ mà dùng sách thì được không ông!". Ông K mắt sáng lên, mừng rỡ :" Được chứ cụ, tốt quá, tốt quá!" . Thế là cụ H hồ hởi, kéo lê từ trong gầm ban thờ ra một cái hộp phủ đầy bụi, rồi cụ lấy một chiếc chia khóa đeo trên cổ ra, mở khóa hòm. Trong hòm là một quyển sách cũ, giấy đã ngả vàng. Ông K nhẹ nhàng lần mở từng trang sách ra xem, vừa xem ông vừa rùng mình, toát mồ hôi. Xem xong, ông nói :" Tôi thật không ngờ bùa chú Nam tông lại có dòng độc ác thế này, ông L dùng phép này thì bảo sao mà chẳng gặp đại họa!"

Thế là ngay chiều hôm đó, ông K và các cụ bô lão, thanh niên trong làng vào cả trong núi Cô Yêu để lập đàn giải tội. Trước khi đi, ông đã kén kĩ người vào trong toàn là người tuổi Thân, Ngọ, Tỵ, Hợi, dặn trước là vào thấy gì cũng phải mặc kệ, không ai được cười nói, chỉ trỏ, nghe thấy tiếng ai gọi cũng không được thưa. Đến tầm 9h tối, đàn đã lập xong, ông K mặc áo bào đạo sĩ màu vàng nghệ, đầu đội một cái mũ lông hạc, tay cầm kiếm thép lên đàn làm lễ. Đầu tiên, ông khấn một tràng dài bằng tiếng Miên rồi hú lên một tiếng, múa may trên đàn y như người điên, rồi lại khấn một tràng toàn tiếng Tạng, tiếng Mông, tiếng Chà, vừa khấn ông vừa phun rượu phì phì ra xung quanh. Cuối cùng ông vốc một nắm đỗ, ném về phía trước, khấn : " Oan có đầu nợ có chủ, cớ sao lại làm hại sinh linh vô tội. Lục đinh lục giáp nghe ta, muôn ngàn ngọn lửa bắn lên cung Nam Tào!" Rôi ông trỏ thăng kiếm lên không, ông vừa dứt lời thì đám đỗ dưới đất tóe lửa, nổ đôm đốp như pháo. Bỗng nhiên, từ trong núi vọng ra tiếng con gái khóc lóc nỉ non ai oán, rồi lại có tiếng gầm vang trời như hổ, rồi lại tiếng gào thét chói tai. Ai nghe cũng bủn rủn cả chân tay, ông K quát : "Tất cả đứng yên, coi như không nghe thấy gì. Rồi ông lại khấn tiếp :" Phong Hỏa Lôi Điện! Giải giải giải!", rồi ông cắm ngập cây kiếm xuống đất thì tiếng gào thét dứt, thay vào đó là tiếng van vỉ, than thở. Ông K đốt một lá bùa, bắt quyết rồi ném luôn vào cái hình nhân, hình nhân bốc cháy rừng rực. Tiếng than khóc cũng tiệt. Ông K liền bảo mọi người đi thành tốp tám người, vừa đi vừa rắc gạo nếp với muối, bao giờ rắc hết thì về đây. Được chừng một tiếng sau thì mọi người về, ông K bảo mọi người đắp đất chôn cái kiếm kia rồi làm cái mộ giả, hàng năm đến ngày lễ tết, Vu Lan thì ra thắp hương khấn vái là được, nhưng tuyệt đối không ai được đào xới, động chạm gì đến nữa, có việc gì mà phải đi qua núi thì lên thắp hương, cũng bái chút rồi hãy đi, có khi lại được lợi.

Nhưng kể từ hồi trấn yểm xong cho làng em thì ông K lại càng ngày càng yếu đi. Đem lên bệnh viện tuyến trên thì bác sĩ bảo do ông tuổi đã cao quá, lại chịu nhiều khổ cực từ trẻ, dạo gần đây thì lo nghĩ quá nhiều nên giờ cơ thể không chịu được nữa. Ông K lại ốm, nhưng chỉ mấy nằm viện thì ông K lại khỏe mạnh rồi xuất viện như chưa từng có bệnh gì xảy ra. Về làng, nhìn ông da đỏ au, mắt sáng tinh anh, đi lại nhanh nhẹn, giọng nói sang sảng, khỏe như thanh niên thì ai cũng mừng, nhưng chỉ có những người cao tuổi là thấy hồ nghi điều gì đó, dường như họ biết có chuyện sắp xảy ra. Lần này về, ông K đi thăm hỏi tất cả các nhà trong làng, đến nhà nào ông cũng cho ý kiến về việc trong tương lai, nào là cái hướng này tốt, nên để mùng sáu tháng sau thì đổi lại hướng cổng, tháng 8 năm nay có ngày hai ba là tốt, cưới gả vào ngày này thì tuyệt, có nhà thì ông lại gay gắt phản đối, bảo năm nay nhà này không nên xây nhà, nhà kia không nên cải táng,… dân làng thấy lạ nhưng ai cũng tin tưởng, nể vì ông nên nghe theo. Được tầm hai tuần thì ông K lại đổ bệnh nặng, dân làng đến nhà ông thăm hỏi rất đông, ngồi chật kín nhà. Trước lúc lâm chung, ông K lại dặn dò mọi người lại một lượt, năm này phải tránh cái này, năm nọ phải tránh cái kia.Rồi ông dặn dò chuyện hậu sự của mình :

-Tôi phiêu bạt cả đời, về đến đây dừng chân, các ông các bà chẳng kì thị tôi khác giống mà lại đối sử với tôi hết lòng, thật đây như là quê hương thứ hai của tôi vậy. Sau khi tôi chết, làng hãy hỏa táng tôi rồi đem chôn ở góc phía nam của núi Chàng Sinh. Tiền lo liệu hậu sự, tôi đã chuẩn bị từ lâu, để trong cái hộp gỗ dưới gầm giường, tôi tính lo xong chắc cũng còn nhiều, được bao nhiêu thì làng gửi thẳng cho tôi vào công quỹ, mỗi năm lấy ra một phần làm phần thưởng cho các cháu học giỏi.

Rồi ông lại nhìn quanh, hỏi:

-Thế chú H chưa về hả?

(Chú H ở đây chính là bố em, bố em lúc này đã đi thoát ly được 5 năm, nghe tin ông H bệnh là bố em liền bắt tàu từ trong Nam về ngay, nhưng về đến quê thì không kịp nữa.)

Mọi người bảo ông là mai bố em sẽ về đến, ông phải khỏe để còn chờ bố em về. Ông K liền đưa ra một phong thư và bảo mọi người bao giờ bố em về thì đưa cho bố hộ ông. Nghỉ một lúc, ông K lại thều thào nói tiếp :

-Tôi thực rất quý quê ở đây nhưng àm tôi vẫn cứ là người Trung Quốc, ngày sau có ai sang bên đó thì xin đem xương cốt tôi về với, rồi lên Thiểm Tây, hỏi nhà họ Trương Thiết, rồi xin hộ tôi với ông trưởng tộc là ông cho đứa bất hiếu là Trương Thiết Trấn về đất của dòng họ. Miếng đá này xin đưa cho người giúp tôi đem lên Thiểm Tây để làm tin. Còn viên ngọc trai đen trong cán kiếm của tôi thì xin tặng người đó để trả ơn.

Nói đoạn, ông rút miếng đã ra đưa cho cụ H, cụ H và dân làng khóc mà bảo ông không phải lo nhiều, dân làng sẽ cố hết sức để đưa ông về quê cha đất tổ.Ông K gật gật đầu rồi mỉm cười mãn nguyện. Rồi ông bắt đầu hát, ông hát bằng tiếng Trung, mọi người nghe không hiểu gì nhưng nghe âm điệu thì đó có vẻ như là một bài tình ca của dân tộc thiểu số Trung Quốc, nhưng không ai biết là ông hát cho ai. Ông K cứ hát ngân nga, ngân nga rồi khóc,lần đầu tiên mọi người mới thấy ông khóc, ông hát xong thì cố chút sức tàn nói mấy câu toàn tiếng Trung, rồi ông mất. Có vài người ở đó hiểu võ vẽ chút tiếng Trung, nói đó là ông đọc hai câu thơ : Yêu nhau từ lúc đầu xanh- Âm dương cách biệt chẳng phai duyên tình . Ông còn gọi tên một người, không dịch được nhưng chỉ nghe là : "Lian Lian"

Cuộc đời của một thầy pháp lừng danh đã kết thúc như vậy, nghề phù thủy đã đẩy ông K vào bao nhiêu sóng gió cuộc đời, giờ thì ông chết nơi đất khách quê người, xung quanh không có lấy một người thân.

Chừng 5 năm sau thì có người bên Trung Quốc sang hỏi tin ông K, một ông già hơn 70 tuổi cứ lọ mọ đi từng nhà, hỏi bằng giọng tiếng Việt líu lơ xem có biết ai cũng có hình xăm trên tay như ông không, nhưng chẳng ai biết. Cuối cùng thì có một ông già sống cùng thời ông K nhận ra cái hình xăm này giống y hệt hình xăm trên tay ông K, chỉ khác là của ông K thì có chữ Thiên nhỏ ở mé trái còn của ông này thì chỉ có chữ Nhân, ông già kia mới hỏi có phải ông quen biết một người tên là Trương Thiết Trấn không. Ông gia người Hoa kia mừng rỡ trả lời đấy là anh ruột của ông, vì hồi trẻ bị gia đình từ mặt nên bỏ nhà đi, bây giờ bố mẹ ông đã qua đời lâu, ông lại làm trưởng họ nên muốn đi tìm anh về đoàn tụ. Hóa ra ông K còn có em trai, dân làng nghe tin người nhà ông K đến thì đổ xô đến xem, đến chiều thì ông này được dẫn lên quả núi có một ông K. Đến chân núi, ông này tự nhiên quỳ xuống rồi vừa bò vừa khóc lên chỗ mộ ông K, dân làng và con cháu ông vào cản thì ông gạt hết ra, cứ thế bò lên núi, tay trầy bật cả máu vẫn không chịu dừng. Sáng hôm sau, ông xuống làng xin mọi người cho ông đem hài cốt anh mình về quê, muốn bao nhiêu tiền ông cũng giả, rồi ông lấy ra hai va ly toàn tiền đô, ít cũng phải vài chục ngàn. Nhưng các cụ trong làng không nhận đồng nào, lại dẫn ông đến nhà cụ H nhận lại những đồ hồi trước của ông K. Cụ H giờ đã yếu lắm rồi, chỉ toàn nằm một chỗ, nghe có em ông K đến thì cụ liền ngồi dậy nhưng không được, cụ bảo con cháu khuân cái hòm trên gác xuống trao lại cho ông cụ, rồi cụ H lấy từ trong cái túi gấm đeo bên hông ra cái mảnh đã của ông K. Ông già kia nhận lại mảnh đá, rưng rưng nước mắt, ông cũng lấy trên cổ ra một mảnh đã như vậy, nhưng đối xứng với mảnh đã của ông K. Rồi ông khớp hai mảnh đá lại với nhau, thì ra hải mảnh đá ghép lại sẽ thành hình Âm Dương Bát Quái, ông K giữ mảnh Càn còn em ông giữ mảnh Khôn. Sau đó, ông già kia mới kể lại lai lịch của ông K cho mọi người nghe, những quãng đời phiêu bạt của ông K thế nào thì ông không biết. Giờ mọi người mới rõ là ông K có xuất thân kì bì đến vậy, còn ông già này tên là Trương Thiết Bách, lúc ông K bị đuổi đi thì ông mới có 5 tuổi. Sau đó, ông Bách còn ở lại làng chơi mấy ngày rồi mới về nước, trước khi về ông lưu lại địa chỉ và số điện thoại, số Fax, số điện báo của ông cho các cụ. Ông bảo ông xem làng này có oán khí cứ vương vẩn không tan, sớm muộn cũng có chuyện. Nếu có chuyện gì thì cứ liên lạc, tự khắc có người đến giúp. Dân làng nghe sắp có chuyện thì kinh hãi, lo lắng không biết trời còn giáng thêm tai hạ gì xuống cái làng nhỏ bé này nữa. Nhưng lần này thì không biết ai sẽ đứng ra chống đỡ cho làng. Lần này thì chuyện đã dậy dưa đến cả đời em, và cũng qua đó mà em quen một người bạn thần bí vô cùng.

Chuyện thứ mười một: Hậu họa từ năm xưa

Từ khi ông K mất, làng em như thiếu mất một cái gì đó. Sáng sớm không còn nghe thấy tiếng đạp xe kẽo kẹt đi lên tỉnh, những đám giỗ, đám ma, bốc mộ,…không ai còn thấy bóng dáng một ông già mảnh khảnh, tóc bạch kim, mặc cái kaki đã sờn vai, tay bắt quyết, tay cầm kiếm như trước. Bọn trẻ con cũng thấy hụt hẫng vì giờ chẳng còn thấy những ông leng keng như ông A, ông N trong những đám việc trong huyện nữa. Chẳng còn bóng dáng một ông béo tốt, da đỏ au và một ông gầy gò, mặt hiền như bột hay đi cùng nhau trên đê nữa, chẳng còn hai ông mà ngày nào về đến đầu làng cũng cho chúng nó đủ thứ xôi oản, trứng gà như trước. Giờ đây, quê em không còn là cái làng quê mang màu nhiệm, huyền bí nữa. Đứng trước guồng quay của thế giới hiện đại, làng em cứ dần thay đổi từng ngày. Thanh niên trí thức giờ đã bỏ làng lên thành phố kiếm việc rồi ở luôn trên đấy hết, ở lại làng chỉ còn ba phần mười số thanh niên và toàn người già.

Chắc các thím còn nhớ quyển sách của lão L đã chỉ dẫn cho ông K cách giải yểm trong làng. Nhưng từ sau đợt trấn yểm lại núi Cô Yêu xong, tự nhiên quyển sách không cánh mà bay. Đó là vào ngày hội làng, cụ H và các cụ cao niên quyết định đem quyển sách đốt đi đẻ phòng trừ họa về sau. Nhưng khi mở dấu niêm phong, rồi cả mười người lần lượt mở mười cái khóa ra thì lúc mở hòm, các cụ ngớ người ra vì trong hòm rỗng không, quyển sách của lão L giờ đã không cánh mà bay, rõ ràng chính tay cụ H và cụ D đã đặt quyển sách vào hòm trước sự chứng kiến của cả mười cụ bô lão. Giả tỷ như có trộm lẻn vào thì cũng chẳng thể nào còn dấu niêm phong, mà dù là có con cháu của ai muốn lén lấy cũng chẳng được vì phải mở cả 10 ổ khóa thì cái hộp mới mở ra. Các cụ còn đang băn khoăn thì đùng một cái, một tiếng sét nổ giữa thinh không, rồi lại ùng oang thêm tám tiếng nữa mới dứt. Dân làng ngơ ngác nhìn nhau, lo lắng không biết chuyện gì sẽ lại xảy ra trên cái đất này. Mấy ngày sau thì hội tan, các cụ họp nhau bàn cách đối phó, có cụ bảo hay là liên lạc qua bên Trung Quốc xin gia tộc nhà ông K giúp, nhưng ngay lập tức các cụ khác gạt đi vì làng em đã nợ ông K quá nhiều, không thể bắt người ta lặn lội mấy ngàn cây sô sang đây chỉ vì chuyện của làng mình được. Bàn qua bàn lại thì các cụ cũng quyết định là sẽ xin với bên xã cho thêm dân quân tuần đêm, buổi tối ai mà đi đường thì phải đi theo nhóm, không được đi lẻ, thế là ổn.

Và mọi chuyện vẫn cứ ổn cho đến một ngày. Đợt đó, dân chài liên tục than vãn vì dạo này sông chẳng kéo được mấy cá, chỉ toàn kéo được cá bé tí ti, chẳng bõ sức quăng lưới. Còn bọn trẻ con chăn bò, chăn dê trong núi thì bảo dạo này cái khoảng sông ngầm sát núi cứ đục ngầu như có ai khoắng, không dám thả trâu bò ra uống nước. Nghe đến khoảng nước đục là những bác trung niên lại giật mình nghĩ về vụ con cá trê đợt nọ, một số thanh niên thì lại càng ghế bởi chính họ là những đứa trẻ năm nào đã gặp con cá trê ở đó. Thế là dân làng cấm không cho trẻ con ra chỗ sông ngầm sát núi kia chơi, ngay cả người lớn mỗi khi có chuyện đi đò qua cũng thấy rợn cả người, lúc đò cập bờ rồi mới yên tâm là mình còn sống.

Thế rồi một hôm, dân kéo vó đêm huyên náo cả lên, họ kéo được một con lươn to chưa từng thấy, nhìn cứ trùi trũi, to bằng cái phích, dài tầm mét rưỡi. Dân làng đổ ra xem thì thấy đó chẳng phải lươn cũng chẳng phải rắn, nó có vây, có da trơn láng như lươn nhưng lại có mồm như mồm thạch sùng, nhìn quái dị vô cùng, mà mắt nó tuy cũng vào loại ti hí nhưng cũng chẳng đến mức híp như mắt lươn. Con này lên bờ rồi mà khỏe vô cùng, quấy rách tấm lưới ý như xé một tờ giấy vậy. Lúc nó há mồm ra thì có cảm tưởng chỉ đớp một cái là lủm luôn tay mình, mặc dù nhìn mồm nó chẳng có tý răng nào. Nhưng dân làng không dám giết thịt, cứ để đấy, đợi xã đến giải quyết. Chờ được hai tiếng thì trên xã cử một anh phiên dịch và một ông tiến sĩ người Nga xuống. Xem xong thì ông này nói không biết con này là còn gì, nhưng nếu đếm vân trên đầu nó thì ước lượng được nó chỉ là con non được vài tháng. Nghe đến đây thì dân làng dựng tóc gáy, con non đã thế này thì ắt phải có con mẹ, mà con mẹ thì còn lớn tới cỡ nào. Ông tiến si Nga liền mổ con lươn, mặc cho sự phản đối của dân làng vì họ sợ bị con mẹ trả thù. Mổ xong con lươn, ông Nga và anh phiên dịch bỏ hết vào thùng đá ướp lạnh rồi đem lên phà chở về nghiên cứu. Phà đang chạy ngon thì tự nhiên chao nghiêng một cái, ông Nga và anh phiên dịch suýt nữa lăn xuống nước. Đi thêm một quãng thì phà lại rung lên, đi thêm quãng nữa đến giữa hồ thì phà bị lật ùm một cái. Anh phiên dịch sợ quá lóp ngóp bơi vào bờ, ông Nga to khỏe bơi đằng sau, bơi nhanh gấp mấy anh phiên dịch, nhưng đang bơi thì ông Nga bị kéo thụt xuống nước, anh phiên dịch khiếp, bơi nhanh vào bờ, vào đến bờ thì dân làng kéo lên được. Còn ông Nga bị thụt xuống chẳng biết sống chết ra sao, mấy ông dân chài vội đẩy thuyền ra cứu thì thấy ông Nga lại trồi lên rồi hụp xuống mấy lần, hét lên toàn tiếng Nga, xua tay ra hiệu bảo mọi người không được xuống. Mấy ông dân chài mặc kệ, cứ đẩy thuyền ra, thuyền ra gần đến nơi, sắp túm được tay ông Nga rồi thì sóng cồn lên, thuyền dạt hết cả ra, còn ông Nga thì thụt xuống không thấy cả sủi tăm. Một vài ông chài đánh bạo, thò đầu xuống nước nhìn thì tất cả cùng rụt lại, hét lên kinh hãi rồi thúc cho thuyền vào bờ nhanh. Lúc lên bờ, mấy ông đều kẻ là thấy dưới nước có một cái bóng to hơn cả thuyền mình đang bơi lừ lừ ở dưới, mắt đỏ ngầy nhìn lên chỗ mình. Nhưng mà nước đục nên mấy ông không nhìn rõ là con gì, vội bơi thuyền vào bờ.

Dân làng nhìn xuống sông rồi lại buồn buồn nhìn nhau, không hiểu lần này họ đã đắc tội với thần thánh phương nào để gây nên cái họa này.

Đọc tiếp: Nỗi Ám Ảnh - Phần 4
Home » Truyện » Truyện Ma » Nỗi Ám Ảnh
↑ Trên cùng
Copyright © Thich123.net
Liên kết © Uhm123.net - HIM18.COM