Các bạn truy cập vào HIM18.COM để đọc truyện MỚI nha. Mong các bạn ủng hộ website mới này!
10:15 sáng, Asakawa và Ryuji đang ở trên chiếc tàu cao tốc vừa rời cảng Atami. Không có phà nối đảo Oshima với đất liền, vì vậy họ đành phải gửi lại ô tô ở bãi đỗ xe bên cạnh khách sạn Atami Korakuen. Tay trái Asakawa vẫn đang nắm chặt chiếc chìa khoá.
Theo dự định, thuyền sẽ tới đảo Oshima sau một tiếng. Trời sắp mưa, gió cũng nổi lên khá mạnh. Chẳng có mấy hành khách lên boong, hầu như mọi người đang ngồi co ro trên ghế. Vì phải quáng quàng mua vé nên họ đã không thể xác nhận thông tin một cách đầy đủ, nhưng dường như có một cơn bão đang tiến lại gần. Sóng dằn mạnh, con thuyền cũng chao đảo hơn.
Vừa nhâm nhi lon cà phê nóng bỏng, Asakawa vừa điểm lại những diễn biến vừa qua trong đầu. Gã không biết nên khen ngợi mình vì sự kiên cường cho đến lúc này, hay nên tự trách mình vì đã không thể tìm ra cái tên Yamamura Sadako và tới đảo Oshima sớm hơn. Vì toàn bộ chìa khoá của vấn đề nằm ở chỗ: có nhận ra hay không lớp màng đen che phủ màn hình trong thoáng chốc ấy chính là một cái chớp mắt. Nếu đúng là đoạn băng ấy không phải được ghi lại bằng máy quay video mà bằng các giác quan của một con người, và đúng là nhân vật đó đã dùng thuật ghi hình bằng ý nghĩ trong lúc đầu máy video đang chạy tại ngôi biệt thự B-4 của Villa Log Cabin, thì siêu năng lực của kẻ đó không thể lường hết được. Chú ý tới đặc điểm nổi bật khác với người thường này, Ryuji đã thành công trong việc tìm ra tung tích của kẻ đó. Nhưng, đã chắc gì Yamamura Sadako là thủ phạm. Tất cả mới chỉ là nghi vấn. Và bọn gã đang trên đường tới đảo Oshima để làm rõ nghi vấn này.
Sóng xô mạnh con thuyền. Một linh cảm xấu bỗng ập xuống Asakawa. Liệu có sáng suốt không khi cả hai người cùng tới đảo Oshima? Ai sẽ cứu vợ con gã nếu bọn họ mắt kẹt trên Oshima vì bão? Hạn chót của gã đang đến gần: 10:40 tối ngày kia.
Cơ thể Asakawa mỗi lúc một co rúm lại mặc cho lon cà phê đang hâm nóng hai tay.
- Mình vẫn chưa tin. Làm sao con người có thể làm được việc đó.
- Vấn đề đâu phải tin hay không. - Ryuji trả lời trong khi vẫn nhìn xuống tấm bản đồ Oshima. - Vấn đề là cậu đang phải đối mặt với thực tế. Cậu nên hiểu, cái mà chúng ta nhìn thấy được chỉ là một phần của hiện tượng biến hoá không ngừng.
Ryuji đặt tấm bản đồ lên đầu gối.
- Cậu biết Big Bang chứ? Người ta cho rằng vũ trụ ra đời từ một vụ nổ khủng khiếp cách đây hai mươi tỷ năm. Tớ có thể biểu diễn lại những biến thiên của vũ trụ từ khi hình thành cho tới nay bằng các công thức toán học, nói một cách cụ thể là phương trình vi phân. Cậu phải biết rằng hầu hết các hiện tượng của vũ trụ này đều có thể biểu diễn dưới dạng phương trình vi phân. Với phương pháp này, hình dáng của vũ trụ cách nay mười tỷ năm, hai mươi tỷ năm, thậm chí một giây cho đến 0,1 giây sau vụ nổ cũng sẽ được làm sáng tỏ. Thế nhưng, chúng ta sẽ không bao giờ biết được cái thời khắc bằng 0, tức là cái tích tắc xảy ra vụ nổ, cho dù chúng ta có dùng mọi cách để lội ngược dòng thời gian và cố gắng mô phỏng nó. Còn một chuyện nữa, đó là vũ trụ của chúng ta sẽ kết thúc như thế nào... Vũ trụ này là mở hay đóng? Chúng ta sẽ không bao giờ biết được sự khởi đầu và kết thúc, chúng ta chỉ biết được những gì đang diễn ra ở khoảng giữa của nó mà thôi. Cậu không thấy đời người cũng giống vậy sao?
Nói rồi Ryuji vỗ vỗ vào cánh tay Asakawa.
- Cậu nói phải, khi xem lại album, mình cũng phần nào hình dung được hồi ba tuổi hay lúc mới sinh nom mình ra sao.
- Đúng không? Nhưng con người không bao giờ biết được trước khi chào đời và sau khi chết đi thì như thế nào.
- Sau khi chết? Thì chết rồi là hết, là chẳng còn gì nữa chứ sao?
- Cậu đã chết bao giờ chưa?
- Chưa. - Asakawa thành thật lắc đầu. - Ý cậu là linh hồn có thật?
- Tớ chỉ có thể nói rằng tớ không biết. Nhưng khi xét tới sự chào đời của một sinh mệnh, tớ cảm thấy mọi thứ sẽ dễ dàng hơn với việc giả định rằng linh hồn tồn tại. Còn giới sinh vật học phân tử hiện đại thì toàn nói bậy. Cậu biết cánh đó nói gì không? "Chỉ cần cho hơn hai mươi loại a-xit a-min, mỗi loại vài trăm đơn vị vào một cái âu, vừa khoắng tít vừa rắc lên đó mấy vốc năng lượng điện, ấy thế là chúng ta đã có ngay được chất đạm, cái gốc của sự sống". Bọn chúng nói vậy đấy. Cậu tin được không? Xằng bậy. Thà nói đại rằng chúng ta là những tạo vật của Thượng Đế cho dễ hiểu. Còn tớ thì tin rằng, có một dạng thức năng lượng hoàn toàn khác, mà chính xác hơn là một loại ý chí nào đó đã hoạt động đúng vào cái thời khắc mà chúng ta ra đời.
Hơi ghé mặt về phía Asakawa, Ryuji đột ngột chuyển chủ đề.
- Này, lúc ở kỷ niệm đường, xem chừng cậu có vẻ say sưa với các trước tác của ông giáo sư ấy nhỉ. Có phát hiện ra điều gì lý thú không?
Gã chợt nhớ ra là gã đang đọc dở dang. Học thuyết của tiến sỹ nói rằng... ý nghĩ hàm chứa năng lượng và năng lượng ấy...
- Hình như ông ta viết rằng ý nghĩ là năng lượng hay cái gì đại loại thế.
- Đoạn tiếp theo là gì?
- Mình không có thời gian đọc hết.
- Hề hề, thật đáng tiếc, phần hấp dẫn nhất lại nằm ở phía sau. Cái cách bố già ấy trình bày thản nhiên và rất có lý về những người mà người bình thường nào cũng sẽ sốc khi nghe tới sẽ làm cậu khoái ra trò. Nhưng tóm lại, bố già ấy muốn nói rằng ý thức là một thực thể sống có năng lượng.
- Cái gì? Nghĩa là những suy nghĩ trong đầu chúng ta sẽ biến thành một thực thể sống?
- Đúng là như thế.
- Thế thì cực đoan quá.
- Chính xác là cực đoan, nhưng có một chủ thuyết tương tự đã được bàn đến suốt từ trước công lịch cho tới nay. Cũng không loại trừ đây là một biến thái của thuyết sức sống (Vitalism).
Nói đến đó, Ryuji bỗng không còn hào hứng với câu chuyện và lại quay về với tấm bản đồ Oshima.
Không phải gã không hiểu Ryuji định nói gì. Nhưng gã vẫn chưa hết thắc mắc. Họ không thể lý giải bằng khoa học cái thực tế mà họ đang phải đối mặt lúc này. Song vì nó là hiện thực, nên họ chỉ còn cách hành xử theo hiện tượng bên ngoài cho dù không biết được mối quan hệ nhân quả. Việc họ cần làm trước tiên là giải mã câu thần chú và thoát ra khỏi vòng vây của thần chết chứ không phải đi tìm lời giải cho sự bí ẩn của những năng lực siêu nhiên. Gã đồng ý là như thế. Nhưng gã cần ở Ryuji một câu trả lời minh xác hơn.
Càng ra xa con thuyền càng lắc mạnh. Asakawa bắt đầu lo mình bị say sóng. Gã thấy rất rõ cảm giác nôn nao trong người. Đang lơ mơ ngủ, bất thần Ryuji ngẩng mặt nhìn ra bên ngoài. Biển một màu xanh xám đậm dậy sóng, phía trước, bóng dáng hòn đảo hiện ra mờ tỏ.
- Asakawa này, tớ vẫn thấy khúc mắc một chuyện.
- Chuyện gì?
- Tại sao bốn đứa nhóc không thực hiện câu thần chú?
... Tưởng gì, hoá ra chuyện đó.
- Nó rành rành ra đấy còn gì? Vì bọn chúng không tin vào nội dung của cuốn băng.
- Tất nhiên, tớ cũng đã từng cho là như vậy. Và chính vì thế mà bọn chúng mới chơi cái trò nghịch dại là xoá đi câu thần chú. Nhưng mà đột nhiên tớ lại nhớ ra một chuyện. Hồi ở trung học, vào một đêm ngủ chung trong chuyến dã ngoại của nhóm điền kinh, thằng Saito đã lao như tên bắn vào trong phòng. Cậu còn nhớ chứ, cái thằng Saito cớm nắng ấy? Cả nhóm có mười hai đứa, đều ngủ trong một phòng. Lúc lao vào phòng, hắn la lớn lên là có ma trong khi răng vẫn đánh vào nhau cầm cập. Hắn bảo, lúc vừa mở cửa toilet ra thì bỗng nhiên hắn nhìn thấy khuôn mặt đang khóc của một đứa bé gái ở chỗ cái bóng của chiếc thùng rác bên cạnh la-va-bô. Trừ tớ ra, cậu biết mười đứa còn lại phản ứng như thế nào không?
- Chắc là năm thằng tin còn năm thằng thì cười nhạo chứ gì?
Ryuji lắc đầu.
- Thế giới phim kinh dị hoặc truyền hình thì như thế. Đó là cái mô típ kiểu như ban đầu sẽ chẳng ai tin, thế rồi con quái vật sẽ tấn công từng người từng người một... Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Mười thằng đó, chẳng chừa đứa nào, đều tin lời hắn cả. Đừng nghĩ chúng quá nhát gan. Các cuộc thử nghiệm với những nhóm khác cũng cho cùng kết quả. Nỗi sợ hãi mang tính căn nguyên đã được tạo lập sẵn trong bản năng con người rồi.
- Ý cậu cho rằng bốn đứa trẻ không tin vào đoạn băng là không bình thường?
Nghe Ryuji nói, Asakawa chợt nhớ lại nét mặt khóc thét của con gái khi nhìn thấy chiếc mặt nạ, và cả mối băn khoăn vào lúc ấy rằng, tại sao con bé lại biết sợ mặt nạ quỷ?
- Tớ không nói vậy, thực ra đoạn phim đó không có cốt truyện cũng chẳng đáng sợ cho lắm. Nên khả năng bọn chúng không tin là không thể phủ nhận. Nhưng chẳng lẽ bọn chúng không thấy bận tâm chút nào? Là cậu thì cậu sẽ tính sao? Nếu thực hiện câu thần chú mà thoát được cái chết, liệu cậu có thử làm không, mặc dù có thể không tin? Có gì lạ đâu nếu một trong số bọn chúng chơi trò ăn mảnh. Đành rằng lúc đó nó phải cố tỏ ra can đảm trước mặt ba đứa khác, nhưng về Tokyo nó vẫn có thể kín đáo thực hiện cơ mà.
Cái linh cảm xấu trong gã lại tăng lên. Thực ra, bản thân Asakawa cũng đã từng nghĩ tới điều này.
... Nếu thần chú là một thứ không thể thực hiện được thì sao?
- Có thể rằng đó là một mệnh lệnh bất khả thi nên chúng đã tự thuyết phục mình theo chiều hướng không tin vào nó?
Lúc ấy, trong óc gã bỗng nảy ra một tình huống như thế này. Có thể, đứa bé gái đã bị một kẻ nào đó sát hại và nó muốn gửi đi thông điệp ấy hòng mượn tay người khác rửa hận cho mình...
- Tớ biết cậu đang nghĩ gì. Và nếu quả là như vậy thì cậu sẽ hành động ra sao?
Nếu câu thần chú là một mệnh lệnh kiểu như hãy giết chết một ai đó thì liệu rằng gã có thể cướp đi sự sống của một con người không hề quen biết để cứu lấy sinh mệnh của mình không? Asakawa tự vấn. Nhưng còn một vấn đề bức thiết hơn, ấy là ai sẽ thực hiện câu thần chú khi mà sự thật là như thế? Asakawa lắc mạnh đầu. Gã không nên nghĩ tới những chuyện ngu ngốc như vậy. Gã chỉ còn biết cầu mong để những yêu cầu của cái kẻ tên Yamamura Sadako là thứ mà ai cũng có thể thực hiện được.
Những đường nét của hòn đảo đã rõ ràng, con thuyền chầm chậm xoay hướng để cập vào cầu cảng Motomachi.
- Này Ryuji, mình muốn nhờ cậu một chuyện. - Giọng Asakawa rành rọt.
- Gì thế?
- Nếu mình không còn đủ thời gian, nghĩa là... - Asakawa không muốn nhắc đến chữ chết. - Nếu cậu tìm ra chân tướng của câu thần chú vào ngày hôm sau, thì cậu hãy...
Ryuji không để gã nói hết.
- Tất nhiên. Để đó cho tớ. Tớ sẽ có trách nhiệm cứu vợ và cún con nhà cậu.
Asakawa chìa ra tấm danh thiếp mà gã đi ghi ở mặt sau một số điện thoại.
- Mình định gửi vợ con về nhà ngoại ở Ashikaga cho tới khi giải quyết xong vụ này, đây là số điện thoại nhà vợ mình. Mình đưa luôn cho cậu kẻo quên.
Ryuji nhét tấm danh thiếp vào trong túi mà không thèm nhìn.
Nhà tàu thông báo thuyền đã cập cảng Motomachi. Asakawa gọi điện cho vợ từ trên cầu cảng hòng thuyết phục cô về nhà bố mẹ đẻ ít lâu. Gã không biết khi nào mình mới có thể trở lại Tokyo. Chưa biết chừng gã sẽ phải đón cái kết cục của mình ở trên đảo Oshima này. Gã không sao chịu được khi tưởng tượng ra cảnh vợ con đang sống trong sợ hãi nơi căn hộ chung cư chật hẹp.
Ryuji cất tiếng hỏi trong khi bước xuống cầu tàu.
- Này Asakawa, cậu thương vợ con đến thế cơ à?
Một câu hỏi chẳng có vẻ gì là Ryuji khiến gã bật cười.
- Ngay cả cậu rồi cũng sẽ hiểu tại sao.
Tuy nhiên, Asakawa không nghĩ rằng Ryuji sẽ có được một gia đình tử tế.
Đứng trên cầu cảng Oshima, gió lộng hơn ở Atami. Ngẩng mặt lên trời, Asakawa thấy nhiều đám mây hối hả bay từ tây sang đông, những con sóng xô mạnh vào thành cầu làm khối bê tông rung lên dưới chân gã. Mưa chưa lớn, nhưng đã có những giọt nước được gió mang theo rơi thẳng xuống mặt. Hai người không mang ô, đút hai tay vào túi, so vai và rảo bước thật nhanh theo chiếc cầu tàu thò ra biển.
Nhiều người dân đảo cầm những tấm biển cho thuê xe hơi hoặc những lá cờ phướn của quán trọ đang đứng chờ du khách. Asakawa ngẩng đầu lên và đưa mắt tìm một người đã hẹn trước. Trước khi lên tàu cao tốc rời cảng Atami, gã đã nhờ toà soạn cung cấp số điện thoại của ban tin tức Oshima và thỉnh cầu sự hợp tác của một cộng tác viên tên là Hayatsu. Chưa có tờ báo nào đặt phân xã ở Oshima, thay vào đó, họ thuê người địa phương làm cộng tác viên. Cộng tác viên có nhiệm vụ theo dõi mọi diễn biến trên đảo và liên lạc về tổng xã nếu phát hiện thấy những sự kiện hay những mẩu chuyện đặc biệt. Tất nhiên, sự hợp tác của họ là không thể thiếu trong những trường hợp phóng viên của tổng xã ra tác nghiệp trên đảo. Với trường hợp của Hayatsu, ông về ở hẳn trên đảo Oshima sau khi thôi làm việc cho báo M. Phạm vi phụ trách của ông là toàn bộ bảy hòn đảo thuộc quần đảo Izu nằm về phía nam thị trấn Oshima, ông được phép trực tiếp viết bài và gửi về toà soạn mà không cần chờ phóng viên của tổng xã mỗi khi diễn ra sự kiện nào dó. Bản thân Hayatsu nắm giữ một mạng lưới đưa tin riêng trên đảo, vì thế, công việc điều tra của gã chắc chắn sẽ tiến triển nhanh hơn nếu có được sự cộng tác của người này.
Hayatsu vui vẻ chấp nhận lời đề nghị của Asakawa qua điện thoại và hứa sẽ ra đón họ tại cầu cảng. Vì không biết mặt nhau nên Asakawa thông báo với Hayatsu rằng họ đi hai người và mô tả sơ qua về đặc điểm cơ thể của mình.
- Xin lỗi có phải anh là Asakawa?
Có giọng nói cất lên từ phía sau.
- Vâng, là tôi đây.
- Tôi là Hayatsu, làm việc ở ban tin tức Oshima.
Hayatsu vừa đưa ô lên che vừa chào họ với một nụ cười dễ mến.
- Xin lỗi bác vì đường đột quá.
Vừa bước đi Asakawa vừa giới thiệu Ryuji rồi họ nhanh chóng leo lên xe ô tô của Hayatsu. Không thể nói chuyện bên ngoài xe vì tiếng gió rít ù ù. Lòng xe khá rộng so với một chiếc ô tô hạng nhỏ. Asakawa ngồi lên ghế phụ còn Ryuji ngồi ở băng sau.
- Chúng ta đến thẳng nhà Yamamura Takashi chứ? - Hayatsu hỏi, hai tay đặt trên vô lăng. Đã hơn sáu mươi nhưng tóc ông vẫn khá dày, tuy có nhiều sợi bạc.
- Bác đã tìm được nhà Yamamura Sadako rồi ạ?
Trên điện thoại, Asakawa đã nói qua với Hayatsu về ý định điều tra một nhân vật có cái tên Yamamura Sadako.
- Vì ngôi làng ấy nhỏ lắm. Nói đến họ Yamamura ở Sashikichi thì chỉ có một thôi nên tôi tìm thấy ngay. Nhà Yamamura vốn làm nghề đánh cá, tuy vậy vào mùa hè cũng có kinh doanh thêm nhà trọ. Hay là đêm nay tôi để các anh nghỉ lại đó... Để các anh ở lại nhà tôi cũng được nhưng phải cái chật chội và bừa bộn quá, chỉ sợ làm phiền hai người...
Hayatsu nói vậy rồi cười. Ông sống cùng với vợ. Quả tình ông không nói dối, nhà ông chẳng đủ chỗ để mời hai vị khách ngủ lại. Asakawa quay lại sau nhìn Ryuji.
- Tớ thì sao cũng được.
Hayatsu tăng tốc cho xe phóng thẳng về phía Sashikichi, ngôi làng nằm ở cực nam của đảo. Nói là tăng tốc chứ chẳng chạy được nhanh, vì đường vành đai lượn quanh đảo vừa hẹp vừa lắm khúc cua. Những chiếc xe chạy ngược chiều phần lớn là xe hạng nhỏ. Tầm mắt mở rộng về phía bên phải, biển hiện ra và tiếng gió cũng đổi khác. Biển nhuộm màu da trời, sâu thẳm, những đợt sóng cuộn lên, ngọn sóng trắng lấp lánh. Nếu không có chúng, đường ranh giới giữa biển và trời, thậm chí giữa biển và đất liền hẳn đã trở nên mờ nhạt. Nhìn mãi cảnh tượng ấy khiến lòng Asakawa buồn bã. Thông tin về cơn bão đang phát trên đài lại càng làm gã rầu rĩ hơn. Tới một ngã ba, chiếc xe rẽ vào con đường bên phải và bắt gặp một lối đi trồng toàn hoa trà, nó chui qua dưới cái vòm ấy. Chắc tại mưa gió lâu ngày cướp đi lớp đất phủ, dưới những gốc cây, vô số những chiếc rễ trần trụi cong queo trồi ra và xoắn xuýt vào nhau. Vẻ mơn mởn ẩm ướt vì nước mưa trên bề mặt chúng bất chợt khiến Asakawa rơi vào một cảm giác như đang luồn lách trong ruột một con quái vật khổng lồ.
- Còn một đoạn nữa là đến Sashikichi rồi. - Hayatsu nói. - Nhưng tôi không nghĩ là cô Yamamura Sadako còn ở đó. Những chuyện cụ thể hơn các anh cứ hỏi ông Yamamura Takashi. Nghe đâu ông ấy là anh em họ với mẹ của Yamamura Sadako.
- Cô Yamamura Sadako năm nay bao nhiêu tuổi rồi ạ? - Asakawa hỏi. Từ nãy tới giờ, Ryuji chỉ ngồi bó gối ở ghế sau, chẳng hề mở miệng câu nào.
- Tôi chưa gặp bao giờ, nhưng nếu cô ta còn sống thì năm nay chắc khoảng bốn hai, bốn ba gì đấy.
... Nếu còn sống? Tại sao ông ấy lại dùng cách nói này? Asakawa bỗng thấy nghi ngại. Hay là cô ta đã biệt tích từ lâu? Đã đặt chân lên đến đảo mà không thu lượm được tin tức gì, gã chỉ còn cách đợi chờ kết cục. Nỗi hoang mang thoáng qua trong đầu gã.
Đang băn khoăn thì chiếc xe dừng lại trước cửa một ngôi nhà hai tầng có tấm biển đề "Quán trọ Yamamura". Ngôi nhà tọa lạc trên một sườn dốc thoai thoải nhìn ra biển, những ngày đẹp trời hẳn là phong cảnh dưới kia sẽ rất tuyệt vời. Ngoài khơi, cái bóng hình tam giác của một hòn đảo hiện lên lờ mờ. Đó là đảo Toshima.
- Hôm nào trời nắng to, từ đây ta có thể nhìn thấy được đảo Nijima, Shikinejima, và cả đảo Kozushima nữa.
Hayatsu đưa tay chỉ tít về phía nam và nói với vẻ tự hào.
Cậu bảo tớ điều tra về cô ta, nhưng điều tra cái gì bây giờ?
... Tham gia đoàn kịch năm 1965? Hắn đùa chắc? Chuyện cách nay đã hai mươi nhăm năm rồi còn gì?
Yoshino rủa thầm trong bụng.
... Lần theo dấu vết của một tên tội phạm cách đây một năm cũng đủ bở hơi tai chứ nói gì đến hai mươi nhăm năm.
- Mọi thứ, gì cũng được: cuộc đời, công việc và mong muốn của cô ta.
Yoshino chỉ còn biết thở dài. Anh ta vừa kẹp ống nghe vào vai vừa kéo quyển sổ tay ở mép bàn về phía mình.
- ... Thế hồi ấy cô ta bao nhiêu tuổi?
- Mười tám tuổi. Sau khi tốt nghiệp cấp ba ở Oshima, cô ta lên Tokyo và gia nhập đoàn kịch Hisho.
- Oshima? - Yoshino thôi viết, cau mày. - Cậu đang gọi điện từ đâu đấy?
- Từ Sashikichi trên đảo Izu Oshima.
- ... bao giờ về?
- Cố gắng sớm nhất có thể.
- Cậu có biết là bão đang vào không?
Tất nhiên, ở trên đảo thì ai mà chẳng biết, thế nhưng cái tình huống đầy kịch tính và nhuốm màu sắc không tưởng này chợt khiến Yoshino thú vị. Hạn chót là tối ngày kia, vậy mà rất có thể hắn sẽ không về được vì bị mắc kẹt trên đảo.
- Đường biển và đường hàng không không thế nào hả anh? - Asakawa vẫn mù mờ về cơn bão.
- Tớ không biết, nhưng cứ tình hình này thì chắc là...
- Huỷ chuyến...
- ... chắc là vậy.
Cho tới giờ, Asakawa chưa hề nhận được một thông tin chính xác nào về cơn bão vì còn mải đuổi theo tung tích của Yamamura Sadako. Từ lúc tới cảng Oshima cái dự cảm không lành ấy đã lởn vởn trong đầu gã. Nhưng phải đến khi chính miệng gã thốt ra hai tiếng huỷ chuyến, nó mới lớn lên thành một nỗi hoang mang thực sự. Vẫn cầm chiếc điện thoại trên tay, Asakawa bỗng chìm vào im lặng.
- Thôi nào, cậu đừng lo. Chưa có quyết định rõ ràng mà. - Yoshino cố làm ra giọng vui vẻ rồi lái câu chuyện sang hướng khác. - Nghĩa là, các cậu đã điều tra xong giai đoạn trước năm mười tám tuổi của Yamamura Sadako rồi phải không?
- Cũng sơ sơ thôi...
Vừa trả lời Asakawa vừa lắng tai nghe tiếng gió và tiếng sóng biển từ trong bốt điện thoại.
- Cậu còn có manh mối nào khác nữa không? Chẳng lẽ chỉ có mỗi chi tiết đoàn kịch Hisho?
- Vâng, còn một vài điểm nữa. Yamamura Sadako sinh năm 1947 ở Sashikichi trên đảo Izu Oshima, mẹ là Shizuko, à, anh ghi cả cái tên này nữa: Yamamura Shizuko, năm 1947 bà ta hai mươi hai tuổi. Vừa sinh xong, Shizuko gửi Sadako cho người bà của mình nuôi rồi bỏ nhà lên Tokyo...
- Tại sao bà ta để lại đứa bé trên đảo?
- Vì một người đàn ông. Anh ghi giùm em cả cái tên này nữa: Ikuma Heihachiro, khi ấy là phó giáo sư Khoa Thần kinh học Đại học T., người yêu của Yamamura Shizuko...
- Như vậy thì Yamamura Sadako là con chung của Shizuko và Ikuma Heihachiro đúng không?
- Chưa có bằng chứng xác thực, nhưng hiện thời có thể khẳng định suy đoán đó là đúng.
- Hai người không cưới xin gì hết?
- Vâng, vì Ikuma Heihachiro đã có vợ con rồi.
Hoá ra là một cuộc tình dan díu... Yoshino liếm đầu bút chì.
- Được rồi, cậu tiếp đi.
- Ba năm sau, năm 1950, Shizuko về thăm quê và gặp lại con gái Sadako. Bà ta sống ở đó ít lâu nhưng chỉ đến cuối năm đó, bà ta lại ra đi, lần này thì mang theo cả Sadako. Hai mẹ con Shizuko và Sadako đã ở đâu, làm những gì suốt năm năm sau đó thì chưa rõ. Tuy nhiên, vào giữa những năm năm mươi, một người anh em họ của Yamamura Shizuko sống trên đảo có nghe đồn rằng Shizuko đã trở nên nổi tiếng và đang rất thành công.
- Bà ta đã gây ra vụ gì à?
- Không rõ nữa. Người anh em họ của Shizuko chỉ kể rằng có nghe phong thanh về bà ta mà thôi. Nhưng khi em chìa tấm danh thiếp nhà báo ra thì ông ta bảo, cánh săn tin các cậu phải rõ hơn tôi chứ. Xem cái cách nói ấy thì có vẻ như trong năm năm từ 1950 đến 1955, hai mẹ con Shizuko và Sadako đã làm một việc gì đó khiến giới truyền thông phải xôn xao. Tuy nhiên, vì ở đây là cù lao nên thông tin từ đất liền rất khó tới được...
- Sao? Nghĩa là cậu muốn tớ điều tra chi tiết đó chứ gì?
- Anh nhanh trí thật đấy.
- Thằng đểu, điều ấy thì ai mà chả đoán ra.
- Vẫn còn nữa. Năm 1956, Shizuko đem theo Sadako về làng nhưng trông bà ta tiều tụy như biến thành một người khác. Người anh họ có hỏi gì thì bà ta cũng không buồn trả lời, chỉ suốt ngày u uất và ư ử hát những câu không rõ nghĩa để cuối cùng gieo mình xuống miệng núi lửa Mihara tự vẫn. Khi ấy bà ta ba mươi mốt tuổi.
- Cậu muốn tớ điều tra cả cái lý do bà ta tự sát nữa chứ gì?
- Nhất định anh phải giúp em vụ này.
Asakawa cúi gập người trong khi vẫn đang cầm ống nghe. Nếu bị mắc kẹt ở trên đảo, gã chỉ còn có thể trông cậy vào Yoshino. Gã thấy hối hận vì cả hai người đã cùng kéo nhau tới chỗ này. Một ngôi làng nhỏ như Sashikichi thì chỉ cần Ryuji là đủ. Đáng lẽ gã phải ở lại Tokyo, chờ Ryuji liên lạc về rồi cùng Yoshino hành động. Kế ấy rõ ràng là sẽ hiệu quả hơn.
- Tớ sẽ cố trong khả năng có thể. Nhưng mà cậu không nghĩ rằng ta cần thêm người à?
- Em sẽ gọi điện cho Tổng biên tập Oguri để nhờ huy động thêm vài người nữa.
- Ừ, làm như thế đi.
Nói thì nói thế thôi chứ bản thân Asakawa cũng không dám tin. Ai mà tin được một tay tổng biên tập luôn miệng ca cẩm thiếu người như Oguri lại có thể dành cho họ những biên tập viên quý giá của ông ta.
- Để em kể tiếp. Sau khi mẹ tự sát, Sadako ở lại Sashikichi và được người bác họ nuôi nấng. Ngôi nhà của người này hiện đang dùng vào việc kinh doanh nhà trọ... - Asakawa định nói rằng gã đang cùng với Ryuji trọ tại chính ngôi nhà ấy nhưng lại thôi, vì gã nghĩ là thừa. - Năm lớp bốn, việc Sadako tiên đoán rằng núi lửa Mihara sẽ phun trào vào năm sau khiến cô bé nổi danh khắp trường. Anh biết không, năm 1956, núi lửa Mihara phun trào đúng như lời sấm của Sadako.
- Ghê gớm nhỉ. Giá kể mà có cô ta thì cứ dẹp quách cái Ủy ban Dự báo Động đất đi cho rảnh nợ.
Có lẽ Asakawa cũng chẳng cần nói thêm rằng tin đồn về sự linh ứng đã lan ra khắp đảo và tới tai mạng lưới săn tin của tiến sỹ Miura. Tuy nhiên, ở chi tiết này, có một điểm quan trọng...
- Chính vì sự kiện này mà kể từ đó, Sadako thường xuyên bị những người dân đảo lui tới xin cho biết về tương lai của họ. Nhưng cô ta không bao giờ trả lời. Cô ta chỉ đáp lại rằng cô ta hoàn toàn không có cái khả năng ấy.
- Vì khiêm tốn?
- Không rõ nữa. Thế rồi khi tốt nghiệp cấp ba, như chỉ chờ có vậy, cô ta lên Tokyo. Sau đó, chỉ có duy nhất một tấm bưu thiếp được gửi về cho người họ hàng đã nuôi nấng cô ta. Tấm bưu thiếp đại ý viết rằng cô ta đã vượt qua kỳ sát hạch và gia nhập đoàn kịch Hisho. Rồi từ ấy đến nay, Sadako bặt vô âm tín, không một ai trên đảo biết cô ta đang ở đâu và làm gì.
- Tóm lại, đầu mối duy nhất để lần ra dấu vết của cô ta từ sau quãng thời gian đó là đoàn kịch Hisho chứ gì?
- Rất tiếc là như vậy...
- Được rồi, ta soát lại một lượt nhé. Tớ sẽ điều tra lý do khiến giới báo chí xôn xao vì Yamamura Shizuko, lý do bà ta nhảy xuống miệng núi lửa và việc Sadako đã làm gì, ở đâu sau ngày tham gia đoàn kịch khi cô ta mười tám tuổi. Tóm lại là hai vấn đề, một liên quan đến mẹ và một liên quan đến con.
- Đúng vậy.
- Làm cái nào trước?
- Sao ạ?
- Tớ đang hỏi cậu muốn tớ điều tra bà mẹ trước hay cô con gái trước? Cậu không còn nhiều thời gian đúng không?
Tất nhiên, Yamamura Sadako mới là vấn đề trực tiếp.
- Cô con gái trước.
- Rõ rồi. Ngay ngày mai tớ sẽ có mặt ở văn phòng đoàn kịch Hisho.
Asakawa nhìn đồng hồ. Mới hơn sáu giờ chiều một chút. Giờ này chắc sàn tập của đoàn kịch vẫn còn mở cửa.
- Anh Yoshino, anh đi luôn tối nay được không?
Yoshino thở một cái rõ to rồi khẽ lắc đầu.
- Asakawa này, cậu thông cảm cho tớ đi, tớ còn có công việc của mình. Tớ còn cả núi bản thảo phải hoàn tất trong đêm nay. Thực ra thì ngày mai tớ cũng...
Yoshino ngừng lời ở đó. Nếu nói thêm nữa lại thành ra thái độ ban ơn. Yoshino bao giờ cũng chú ý tới từng chi tiết nhỏ để chứng tỏ mình là một thằng đàn ông khoáng đạt.
- Em van anh đấy, Yoshino. Ngày kia là thời hạn của em rồi.
Biết rất rõ nội tình của nghề báo, Asakawa không dám hối thêm nữa. Gã chỉ còn cách im lặng chờ đợi câu trả lời của Yoshino.
- ... Cậu đã nói thế thì đành vậy. Được rồi, tớ sẽ cố thu xếp trong tối nay, nhưng không hứa chắc đâu đấy.
- Em mắc nợ anh lần này.
Asakawa cúi đầu rồi chuẩn bị gác máy.
- Này, chờ đã. Tớ vẫn chưa được nghe điểm mấu chốt.
- Điểm gì?
- Rốt cuộc, Yamamura Sadako có liên quan gì tới đoạn băng mà cậu xem?
Asakawa ngừng một lát.
- Em có nói anh cũng không tin.
- Thì cậu cứ nói đi.
- Đoạn băng đó không phải được ghi bằng máy quay video.
Asakawa dừng lại trong một khoảng thời gian đủ dài để chờ cho ý nghĩ của một câu nói đi vào đầu Yoshino.
- Đoạn phim là một chuỗi lẫn lộn những hình ảnh được ghi bằng mắt của Yamamura Sadako và những hình ảnh tưởng tượng trong tâm trí cô ta, chúng kết hợp với nhau một cách lộn xộn và phi tuyến tính.
- Hả? - Từ ngữ bỗng chốc biến mất khỏi miệng Yoshino.
- Không thể tin được phải không?
- Một kiểu... chụp ảnh bằng ý nghĩ?
- Khái niệm chụp ảnh bằng ý nghĩ chưa chính xác trong trường hợp này. Có lẽ cần phải gọi là phóng hình bằng ý nghĩ mới đúng, vì hình ảnh được đưa vào bóng hình bằng năng lượng của ý nghĩ.
Chữ phóng hình làm Yoshino liên tưởng tới phóng tinh nên anh ta phá lên cười. Asakawa không giận dỗi, gã tự lý giải về phản ứng tâm lý ấy và lặng lẽ đứng nghe tiếng cười vô duyên của Yoshino.
9:40 tối. Yoshino xuống khỏi tuyến tàu điện ngầm Marunouchi ở Yotsuya Sanchome. Trong lúc bước lên những bậc cấp dẫn từ sân ga lên mặt đất, một cơn gió mạnh suýt nữa làm bay chiếc mũ trên đầu Yoshino, anh ta lấy hai tay giữ mũ và nhìn ra xung quanh. Không phải tìm lâu, Yoshino ngay lập tức nhận ra trạm cảnh sát cứu hoả mà anh ta đã ghi nhớ để làm mốc ở góc đường. Địa điểm cần đến nằm cách đó chưa đầy một phút đi bộ.
Bên cạnh tấm biển đề chữ "Đoàn kịch Hisho" là cầu thang dẫn xuống tầng hầm. Yoshino nghe thấy những tiếng độc thoại hoà cùng với lời ca của đám trai gái trẻ tuổi vọng lên từ bên dưới. Có lẽ bọn họ định tập cho tới trước chuyến tàu cuối vì buổi công diễn đang đến gần. Yoshino biết rất rõ điều này dù không phải phóng viên ban văn nghệ. Một người thường xuyên phải theo đuổi những vụ án hình sự như Yoshino có gì đó không thật thoải mái khi phải tới sàn tập của một đoàn kịch hạng trung như thế này.
Chiếc cầu thang nối xuống tầng hầm được làm bằng sắt. Mỗi bước chân của Yoshino lại phát ra một tiếng kêu cồm cộp. Nếu như các thành viên sáng lập của đoàn kịch này không còn nhớ gì về Yamamura Sadako nữa thì có nghĩa đầu mối cuối cùng sẽ tuột mất và cuộc đời của một nhà siêu năng lực vô tiền khoáng hậu sẽ chìm vào bóng tối. Đoàn kịch Hisho được thành lập năm 1957, Yamamura Sadako gia nhập năm 1956. Những thành viên sáng lập còn lại hiện tại không quá bốn người, trong đó có Uchimura, nhà viết kịch kiêm đạo diễn và là đại diện của đoàn.
Yoshino đưa danh thiếp cho một diễn viên học nghề trạc hai mươi tuổi đang đứng ở lối vào phòng tập và nhờ anh ta gọi Uchimura.
- Thưa thầy, có phóng viên của báo M. muốn gặp thầy.
Bằng chất giọng âm vang như của một anh kép, cậu diễn viên học nghề gọi đạo diễn Uchimura, người đang ngồi sát mép tường theo dõi các cử động của diễn viên. Uchimura giật mình quay lại, khi biết có nhà báo đến tìm ông ta ra mặt niềm nở và tiến lại gần Yoshino. Đoàn kịch nào cũng vậy, luôn luôn tiếp đãi báo giới một cách tử tế. Vì chỉ cần một bài viết nhỏ được đăng trên mục văn nghệ là đủ khiến doanh số bán vé tăng mạnh. Chắc tay phóng viên này tới để đưa tin về quang cảnh tập luyện cho vở diễn một tuần nữa đây mà, Uchimura nghĩ. Ông ta tỏ ra dễ mến là bởi muốn tận dụng cơ hội này, khi đoàn kịch của Uchimura chưa bao giờ có được một diện tích kha khá trên báo M. Nhưng ngay khi biết lý do Yoshino tới đây, Uchimura lập tức mất hứng và tỏ vẻ đang rất bận. Thế rồi, ông ta đưa mắt nhìn khắp phòng tập và dừng lại chỗ một nam diễn viên nhỏ thó đã hơn năm mươi tuổi đang ngồi trên ghế. "Shin, lại đây cưng!", Uchimura gọi người đàn ông tới bằng thứ giọng có âm vực hơi cao. Cái gọi trìu mến dành cho một người đàn ông đã quá năm mươi, mà không, là chính cái giọng đàn bà và đôi cẳng chân dài ngoẵng ẻo lả và thiếu cân đối của Uchimura khiến một tay cơ bắp như Yoshino thấy gai người. Bọn họ thuộc một loài khác với mình, anh ta nghĩ.
- Từ giờ đến cảnh hai không có vai nào của cưng nên cưng ra tiếp hộ mình anh bạn này nhé. Anh ta muốn biết về Yamamura Sadako. Cưng vẫn nhớ cái con bé ghê răng ấy đúng không?
Yoshino đã từng nghe thấy giọng của người đàn ông tên Shin này trong những bộ phim nước ngoài được lồng tiếng trên ti vi. Arima Shin nổi tiếng trong những vai lồng tiếng hơn là trên sân khấu. Ông ta cũng là một thành viên đã sáng lập ra đoàn kịch.
- Yamamura Sadako?
Arima đưa tay lên cái trán đã hói gần một nửa và lần lại phần ký ức của hai lăm năm về trước.
Giọng Arima hơi có vẻ thất thanh. Xem cái cách nói ấy, Yoshino đoán chắc đó là một phụ nữ có ấn tượng khá sâu sắc đối với ông ta.
- Cưng nhớ ra rồi hả? Thế thì cưng dẫn anh bạn này lên phòng mình trên tầng hai nhé, mình phải tiếp tục tập đây.
Uchimura khẽ cúi chào rồi rảo bước về phía tốp diễn viên. Trên quãng đường về đến chỗ ngồi ban nãy, hẳn là ông ta đã lấy lại bộ mặt của một đạo diễn quyền uy.
Mở cánh cửa có dòng chữ "Phòng giám đốc", Arima chỉ bộ sofa bọc da mời Yoshino ngồi. Có phòng giám đốc nghĩa là có giám đốc, mà có giám đốc thì đoàn kịch phải là một công ty. Yoshino đồ rằng ông đạo diễn vừa rồi chính là giám đốc.
- Anh vất vả quá, trời thì đang mưa bão thế này.
Mồ hôi ánh lên trên khuôn mặt đỏ bừng vì tập luyện của Arima, sâu trong đôi mắt ấy, Yoshino bắt gặp một nụ cười khá dễ mến. Trong khi ông đạo diễn ban nãy thuộc kiểu thích dò xét bụng dạ đối phương thì Arima lại có vẻ như sẽ trả lời mọi câu hỏi mà không hề giấu diếm. Công việc lấy tin nhẹ nhàng hay cực nhọc tùy thuộc vào tính cách của người tiếp chuyện.
- Xin lỗi vì phiền ông trong lúc bận rộn thế này.
Yoshino bắt đầu một động tác quen thuộc là rút ra cuốn sổ và cầm cây bút trên tay trong khi ngồi xuống.
- Tôi không nghĩ là còn được nghe nhắc đến cái tên Yamamura Sadako vào lúc này nữa. Chuyện cách đây đã khá lâu rồi còn gì.
Arima đang hồi tưởng lại thời thanh xuân của mình. Ông nuối tiếc cái sức trẻ vào cái thời mà ông chạy khỏi một gánh hát thương mại để cùng đám bạn lập ra một đoàn kịch mới.
- Ban nãy, ông có nhắc tới tên cô gái ấy với một ấn tượng khá đậm, tại sao vậy?
- Để tôi nhớ lại xem, cô gái đó tham gia đoàn kịch khi nào... Có lẽ là sau khi đoàn kịch ra đời được mấy năm. Hồi ấy đoàn kịch đang làm ăn phát đạt nên số người xin vào năm nào cũng tăng lên. Mà thôi đấy là chuyện khác, còn Yamamura Sadako ấy à, cô ta kỳ lạ lắm.
- Kỳ lạ nghĩa là sao?
- Nói thế nào nhỉ. - Arima chống tay lên cằm nghĩ ngợi. Nhắc ra mới nhớ, tại sao mình lại có ấn tượng với cô gái đó?
- Cô ta có đặc điểm nào nổi bật không?
- Không, bề ngoài trông rất bình thường, tuy có hơi cao. Cô ta thuần tính và... luôn tách mình ra khỏi tập thể.
- Tách mình?
- Phải, anh cũng biết là các diễn viên học nghề thường chơi thân với nhau, nhưng riêng cô ta thì chẳng bao giờ có ý định nhập hội với họ.
Ở cộng đồng nào cũng có những kiểu người như vậy nên khó mà coi rằng đấy là điểm làm Yamamura Sadako khác người.
- Nếu nói gọn trong một câu thì ấn tượng của ông về cô ta như thế nào?
- Nói gọn trong một câu ấy à? Xem nào, cô ta có cái gì đó... hơi đáng sợ.
Arima không ngần ngại khi dùng hai chữ đáng sợ. Mà hình như Uchimura cũng gọi cô ta là con bé ghê răng ấy. Yoshino không khỏi thông cảm với một cô gái mới mười tám tuổi mà lại bị đánh giá là ghê răng. Yoshino chợt liên tưởng tới một người con gái có tư dung xấu xí.
- Theo ông thì tại sao cô ta lại có cái vẻ đáng sợ ấy?
Suy nghĩ một chút sẽ thấy rất lạ. Tại sao hình ảnh về một diễn viên thực tập chỉ tham gia đoàn kịch vỏn vẹn có một năm trời và cách đây những hai mươi lăm năm về trước lại gây cho Arima một ấn tượng rõ nét đến vậy? Chắc chắn phải có điều gì đó khiến Arima không thể quên. Đó là một câu chuyện đã làm cái tên Yamamura Sadako ăn sâu vào ký ức của ông.
- À, tôi nhớ ra rồi. Chuyện xảy ra chính tại căn phòng này.
Arima vừa nhìn khắp lượt căn phòng. Ngay khi nhớ ra sự kiện ấy, cả căn phòng, thậm chí cả vị trí của những đồ nội thất ở đây khi nó còn được dùng làm văn phòng đoàn kịch, lại hiện về sống động trong ông.
- Anh biết đấy, nơi tập luyện của chúng tôi vẫn ở đây suốt từ hồi đoàn kịch được thành lập cho đến giờ, tuy nhiên lúc bấy giờ nó chật chội hơn nhiều. Hồi đó, căn phòng mà chúng ta đang ngồi đây vốn được dùng làm văn phòng của đoàn kịch. Ở đằng kia có một cái tủ đựng đồ cho nhân viên, còn chỗ này là một tấm vách ngăn bằng kính mờ..., và còn có một chiếc ti vi được đặt ở đúng vị trí của chiếc ti vi bây giờ.
Arima vừa nói vừa chỉ tay về phía đó.
- Ti vi? - Yoshino thoáng nheo mắt rồi đổi lại tư thế cầm bút.
- Phải rồi, một chiếc đen trắng đời cũ.
- Thế rồi sau đó? - Yoshino giục.
- Hôm ấy, khi buổi tập kết thúc và các thành viên khác đã ra về cả thì tôi trở vào căn phòng này định bụng đọc lại lời thoại của mình một lượt nữa vì còn chưa ưng ý. Lúc tôi đi đến đấy... - Arima chỉ về phía cửa - và ngó vào trong phòng thì thấy màn hình ti vi đang lấp loáng sau tấm kính mờ. Tôi cứ ngỡ là có ai đó đang xem ti vi. Anh đừng cho tôi là nhìn nhầm. Tôi không được trực tiếp thấy những gì đang diễn ra trên màn hình vì vướng bức vách ngăn bằng kính nhưng rõ ràng là có những hình đen trắng lòe nhòe đang nhảy nhót. Không có âm thanh nào hết... Căn phòng không tỏ mặt người, tôi vòng qua tấm kính để xem ai đang ngồi trước máy. Hoá ra là Yamamura Sadako. Nhưng khi tôi vòng qua tấm kính và đứng bên cạnh cô ta thì màn hình đã tắt. Tất nhiên, tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng cô ta đã nhanh tay bấm nút. Ngay lúc đấy, tôi không hề nghi ngờ gì cả. Thế nhưng...
Arima ngập ngừng khi định nói ra điều sau đó.
- Ông cứ tiếp đi.
- Tôi vừa bảo với Yamamura Sadako rằng nếu cô ta không về sớm thì sẽ không còn tàu nữa đâu vừa bật công-tắc chiếc đèn bàn, nhưng mà nó không sáng. Xem xét kỹ thì hoá ra chưa cắm phích. Tôi quỳ xuống định cắm nó vào ổ điện. Đến lúc ấy tôi mới để ý thấy phích cắm của chiếc ti vi cũng đã không còn trong ổ điện...
Arima vẫn nhớ như in cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng khi nhìn thấy đầu cắm của chiếc dây điện dẫn từ ti vi đang nằm lăn lóc trên nền nhà.
- Nghĩa là chiếc ti vi vẫn bật trong khi nguồn bị tắt? - Yoshino xác nhận lại.
- Đúng thế. Tôi lạnh hết cả người. Bất giác tôi ngẩng lên nhìn Yamamura Sadako. Tôi tự hỏi không biết con bé đang làm gì với chiếc ti vi không có điện? Cô ta không nhìn lại tôi, chỉ dán mắt vào trước màn hình ti vi, nhưng tôi thấy có một nụ cười rất khó nhận biết nở ra trên khóe miệng ấy.
Hẳn là ấn tượng phải sâu đậm lắm thì Arima mới nhớ tới từng chi tiết như vậy.
- Thế rồi ông có kể với ai về chuyện này không?
- Tất nhiên rồi. Tôi kể cho Uchimura, cái ông đạo diễn mà anh vừa gặp ban nãy, và cả Shigemori nữa...
- Shigemori là ai?
- Là người sáng lập thực sự của đoàn kịch này. Uchimura là đại diện thứ hai sau ông ấy.
- Tôi hiểu. Thế sau khi nghe câu chuyện của ông, Shigemori đã phản ứng như thế nào?
- Lúc đó Shigemori đang đánh mạt chược nhưng ông ấy tỏ ra rất hào hứng. Bởi ông ấy vốn là một tay hám gái... Hình như ông ấy đã nhắm nhe từ trước rồi. Ông ấy bảo sẽ có lúc ông ấy chiếm đoạt Yamamura Sadako. Thế rồi đêm đó, một phần cũng tại hơi men, Shigemori khoe rằng sẽ đột kích vào căn hộ của Sadako, rồi nói năng lung tung làm chúng tôi đến khổ. Chúng tôi không thích hùa theo những lời bỡn cợt của một người say. Thế rồi chúng tôi bỏ ông ấy lại một mình và tất cả ra về. Rốt cuộc mọi việc kết thúc ở đó và chúng tôi không hề biết Shigemori có tới chỗ Yamamura Sadako thật hay không? Bởi vì, ngày hôm sau tuy Shigemori có mặt tại phòng tập nhưng ông ấy câm lặng như một người hoàn toàn khác, mặt bủng beo và ngồi bất động trên ghế, ông ta chết như đang ngủ.
Yoshino giật mình ngẩng mặt lên.
- Thế nguyên nhân cái chết là gì?
- Đứng tim, bây giờ người ta gọi đó là suy tim cấp. Tôi nghĩ rằng ông ấy chết vì đã làm việc quá sức để chuẩn bị cho buổi công diễn trong giai đoạn nước rút.
- Rốt cuộc, không một ai biết đã có chuyện gì xảy ra giữa Yamamura Sadako và Shigemori?
Arima gật đầu để khẳng định cho câu hỏi của Yoshino. Vậy là đã rõ, với một nguyên nhân như thế, Yoshino có thể hiểu được tại sao ấn tượng về Yamamura Sadako lại hằn sâu đến vậy trong ký ức Arima.
- Sau sự việc đó, cô ta thế nào?
- Cô ta bỏ đoàn kịch. Tôi nghĩ là cô ta đã làm việc ở chỗ chúng tôi trong khoảng một hay hai năm gì đó.
- Cô ta làm gì sau khi bỏ đoàn kịch?
- Chà, cái đó thì tôi không biết.
- Bình thường thì người ta sẽ làm gì sau khi bỏ đoàn kịch?
- Người nào còn ham nghề thì lại vào một đoàn kịch khác.
- Liệu Yamamura Sadako thì thế nào nhỉ?
- Cô ta khá thông minh mà diễn xuất cũng không tồi. Tuy nhiên cô ta lại hơi khiếm khuyết về mặt tính cách. Anh biết đấy, trong cái giới này người ta phải sống dựa vào những mối quan hệ. Với tính cách ấy của cô ta thì e rằng không hợp.
- Nghĩa là rất có thể cô ấy đã đoạn tuyệt với nghề?
- Cũng khó nói lắm.
- Ông có biết người nào nắm được tin tức của cô ta thời gian sau đó không?
- Để tôi xem, những diễn viên học nghề đồng lứa với cô ta có thể biết.
- Ông có biết tên và địa chỉ của họ không?
- Xin anh chờ một lát.
Arima đứng dậy và đi về phía giá sách. Sau đó ông lấy ra một tập hồ sơ trong đám tài liệu ken dày trên giá. Trong đó có cất giữ những tờ khai lý lịch phải nộp vào kỳ sát hạch.
- Có tám người. Năm 1956 có tất cả tám diễn viên học nghề xin vào đoàn kịch, bao gồm cả Sadako.
Arima ve vẩy tập lý lịch trên tay.
- Tôi xin phép xem qua một chút được không?
- Anh cứ tự nhiên.
Trang lý lịch có dán hai ảnh. Một ảnh chân dung và một ảnh toàn thân. Yoshino cố nén cơn tò mò rút tờ lý lịch của Yamamura Sadako ra. Thế rồi bức ảnh đó như hút lấy hồn anh ta.
- Lúc nãy ông có nói rằng Yamamura Sadako là một cô gái đáng sợ?
Yoshino bối rối. Vì khuôn mặt Yamamura Sadako mà Yoshino hình dung ra trong câu chuyện của Arima khác xa so với khuôn mặt trong bức ảnh mà anh ta đang thấy.
- Đáng sợ? Tại sao chứ? Tôi chưa từng thấy khuôn mặt nào đẹp như thế này.
Bất giác Yoshino tự hỏi tại sao mình không dùng cách nói người phụ nữ đẹp mà lại nói khuôn mặt đẹp? Quả là một khuôn mặt gọn gàng đến hoàn hảo, nhưng lại thiếu vắng vẻ tròn trịa của một người con gái. Tuy vậy, trông cô ta thực sự nữ tính trong bức ảnh toàn thân vì đường bờ eo và đôi cổ chân thon thả. Mặc dù đẹp đến thế, nhưng với sự bào mòn của cái dòng chảy thời gian trải dài hai mươi lăm năm ấy, ấn tượng còn sót lại chỉ là một con bé ghê răng và đáng sợ. Bình thường, hẳn người ta sẽ nói: đó là một cô gái xinh đẹp tuyệt vời. Nhưng sự thật về một con người đáng sợ đã tác động mạnh vào tâm trí Yoshino, khiến anh ta chẳng còn dám để ý tới vẻ đẹp nổi bật của Sadako nữa.
Thứ Tư, ngày 17 tháng Mười
Đứng trên ngã tư cắt giữa đại lộ Omotesando và Aoyama, lại một lần nữa Yoshino rút ra cuốn sổ tay.
Nhà trọ Sugiyama, 6-1 Minami-Aoyama. Đó là địa chỉ của Yamamura Sadako hai lăm năm trước. Yoshino đang phải nếm trải cảm giác tuyệt vọng vì ngôi nhà trọ không còn ở địa chỉ này nữa. Rẽ từ đại lộ vào, lô 6-1 nằm ngay cạnh Viện Bảo tàng Mỹ thuật Nezu. Tuy nhiên, đúng như những gì Yoshino lo lắng, một tòa chung cư tráng lệ xây bằng gạch đỏ đã mọc lên thế chỗ cho ngôi nhà trọ rẻ tiền kia.
... Một việc bất khả thi về căn bản. Làm sao có thể biết được tung tích của một nhân vật cách đây đã hai lăm năm.
Manh mối còn lại là bốn diễn viên học nghề cùng gia nhập đoàn kịch một đợt với Yamamura Sadako. Trong số bảy người này, Yoshino chỉ tìm thấy được địa chỉ liên lạc của bốn người. Nếu bọn họ không có tin tức gì của Sadako thì coi như mọi sợi dây đều bị cắt đứt. Yoshino chỉ còn cách nghĩ như vậy. Anh ta nhìn đồng hồ, đã quá mười một giờ đêm. Lao vội tới một cửa hàng văn phòng phẩm, anh ta bắt đầu gửi fax cho ban tin tức ở Izu Oshima để thông báo cho Asakawa biết những điều vừa thu thập được.
Trong lúc ấy thì Asakawa và Ryuji đang có mặt tại nhà Hayatsu, nơi đặt văn phòng của ban tin tức.
- Này, Asakawa! Cậu phải bình tĩnh chứ. - Nhìn thấy Asakawa sốt ruột đi đi lại lại, Ryuji quát. - Rối lên thì làm được gì nào?
Vận tốc gió cực đại, khí áp vùng gần tâm bão lên tới... millibar (Đơn vị đo khí áp. Hiện nay được thay thế bởi đơn vị có tên gọi hectopascal. 1 millibar bằng 1 hectopascal), gió thổi theo hướng đông bắc... nằm trong khu vực gió mạnh kèm theo mưa lớn... sóng dâng cao dữ dội. Thông tin về cơn bão số 12 đang phát trên đài như chọc tức Asakawa.
Vị trí tâm bão nằm ở ngoài khơi cách mũi đất Omaezaki 150km về phía nam, mỗi giờ bão đi được 20km về hướng đông bắc với vận tốc gió đạt 40m/s. Cứ theo đà này, chắc chắn chiều tối nay bão sẽ tới ngoài khơi đảo Oshima. Theo suy đoán của Hayatsu, có lẽ phải hết ngày mai, tức là qua thứ Năm, các chuyến bay và thuyền ra đảo mới hoạt động trở lại.
- Cậu có biết thứ Năm nghĩa là gì không?
... Mười giờ tối mai là hạn cuối của tao rồi. Cơn bão khốn kiếp kia, mau cuốn xéo đi! Mau yếu thành áp thấp nhiệt đới cho tao nhờ!
- Khi nào thì thuyền và máy bay trên đảo mới hoạt động cơ chứ!
Asakawa không còn biết phải trút cơn giận vào đâu.
... Đáng lẽ ta không nên đến đây. Ta không còn thời gian để hối hận. Mà ta biết phải hối hận từ đâu bây giờ? Đáng lẽ ta không nên xem cuộn băng ấy. Đáng lẽ ta đừng có bận tâm về Oishi Tomoko và Iwata Shuichi. Đáng lẽ ta không được bắt chiếc taxi hôm nào... Khốn nạn!
- Tớ đã bảo cậu phải bình tĩnh cơ mà. Cậu không hiểu à? Cậu than vãn với bác Hayatsu thì ích gì? - Ryuji nắm lấy tay Asakawa, bằng một cử chỉ dịu dàng kỳ lạ. - Cậu nghe này, biết đâu câu thần chú phải được thực hiện trên hòn đảo này? Có khả năng đó lắm chứ. Tại sao bọn nhóc lại không thực hiện câu thần chú? Vì chúng không có tiền để tới đảo Oshima. Đấy, hoàn toàn có thể phải không nào. Cứ coi trận bão này là một cơn gió phước lành, rồi cậu sẽ bình tâm lại.
- Nhưng đó là chuyện sau khi đã tìm ra câu thần chú!
Asakawa hất tay Ryuji ra. Thấy hai người đàn ông đã trung tuổi mà cứ ầm ĩ chuyện bùa ngải, Hayatsu và vợ, bà Fumiko, đưa mắt nhìn nhau. Nhưng Asakawa lại ngỡ họ đang cười mình.
- Có gì đáng cười ở đây nào?
Ruiji giật mạnh tay Asakawa khi gã định sấn về phía hai ông bà già.
- Cậu có thôi đi không. Cuống quít lên như thế cũng chẳng giải quyết được gì đâu.
Chứng kiến nỗi bức xúc của Asakawa, một người tốt bụng như Hayatsu bắt đầu cảm thấy trách nhiệm của mình trước việc tàu thuyền và máy bay bị hoãn chuyến vì cơn bão. Mà không, phải nói rằng ông bỗng thấy cảm thông với một con người đang khổ sở vì sự ảnh hưởng của cơn bão ngay trước mắt mình. Ông không ngớt cầu nguyện cho công việc của Asakawa được thuận lợi. Tuy sắp có fax từ Tokyo gửi tới, nhưng ông vẫn muốn làm một điều gì đó hòng thay đổi tình hình vì cho rằng việc chờ đợi chỉ làm tăng thêm sự bức bối.
- Công việc điều tra tiến triển được nhiều chưa hả các anh?
Hayatsu ôn tồn hỏi như để trấn tĩnh Asakawa.
- Vâng, cũng tạm được.
- Có một người bạn hồi nhỏ của Yamamura Shizuko sống ở ngay gần đây, hay là tôi gọi tới để các anh hỏi chuyện? Ông cụ tên là Gen, trời mưa bão thế này không ra biển được chắc ông cụ cũng buồn. Được gặp các anh ông ấy sẽ vui lắm đấy.
Hayatsu tính rằng nếu kiếm cho gã một ai đó để phỏng vấn có thể gã sẽ nguôi ngoai.
- Ông lão đã gần bảy mươi tuổi rồi, chẳng biết có được việc cho các anh không nhưng như thế còn hơn phải ngồi chờ, đúng không nào.
- Dạ...
Không đợi câu trả lời của Asakawa, Hayatsu ngoái đầu vào bếp sai vợ: "Bà nó, mau gọi điện cho ông Gen bảo ông ấy đến đây ngay."
Đúng như lời Hayatsu, Genji nói chuyện rất hào hứng. Ông lão vô cùng vui vẻ khi kể về Yamamura Shizuko. Genji hơn Shizuko ba tuổi, năm nay đã sang tuổi sáu mươi tám. Shizuko vừa là bạn nối khố vừa là người tình đầu tiên của ông. Việc nói chuyện với người khác đã làm các ký ức của ông mạch lạc hơn, hay chính trạng thái kích thích vì có người nghe đã khiến cho những kỷ niệm dễ dàng được khơi lại? Đối với Genji, kể về Shizuko cũng giống như kể về tuổi thanh xuân của mình vậy.
Tuy bập bõm, nhưng câu chuyện Genji kể về Shizuko với những giọt lệ đôi khi ngấn lên trong mắt đã đem lại cho Asakawa và Ryuji một chút hiểu biết về con người này. Tuy nhiên, họ hiểu rằng không cần phải tin tất cả. Những kỷ niệm bao giờ cũng được đánh bóng, vả lại, hơn hết, chuyện xảy ra đã cách đây bốn mươi năm rồi. Biết đâu đấy, ông lão lại chả lẫn lộn với một người đàn bà khác? Nhưng mà không, không thể có chuyện ấy được. Đối với đàn ông, người phụ nữ của mối tình đầu là một cái gì đó đặc biệt, chưa chắc ông lão đã nhầm.
Không thể cho rằng Genji là người khéo kể chuyện, lối kể chuyện của ông vòng vo và tối nghĩa. Quả thật là Asakawa đã bắt đầu thấy ngán. Thế rồi, có một câu nói của ông lão hốt nhiên khiến Asakawa và Ryuji chú ý. "Shizuko nhỏ bé của tôi bỗng nhiên đổi khác. Rõ ràng là tại nó. Bức tượng vị hành giả bằng đá nàng vớt từ dưới biển lên vào một đêm trăng tròn...". Theo lời kể của ông, một sức mạnh lạ lùng nào đó đã nhập vào Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako, và việc này có quan hệ mật thiết với biển trong đêm trăng tròn. Genji bảo, vào cái đêm mà chuyện đó xảy ra, ông đã ngồi chèo thuyền ngay bên cạnh Shizuko. Ấy là một đêm cuối hè năm 1946, khi Shizuko hai mươi mốt và Genji hai mươi bốn.
"Đêm xuống, thế mà cái nóng của ban ngày chẳng dịu đi tẹo nào", Genji kể lại sự việc của bốn mươi tư năm trước như thể nó vừa mới xảy ra tối hôm qua.
Trong một đêm oi ả như thế, dưới ánh trăng vằng vặc. Genji ngồi ngoài hiên, vừa phe phẩy quạt vừa ngắm nhìn mặt biển tĩnh lặng không một tiếng sóng đang phản chiếu bầu trời đêm. Thế rồi sự yên ắng bị phá tan khi Shizuko lao lên từ con dốc trước nhà và đứng khựng trước mặt Genji. "Gen ơi, em muốn đi câu, đẩy thuyền ra đi!", không một lời giải thích, cô kéo tay áo Genji. Genji có hỏi, cô chỉ nói: "Chẳng mấy khi có đêm trăng sáng thế này." Genji chỉ biết ngồi thần ra đó ngắm nhìn người con gái đẹp nhất đảo Oshima. "Thôi cái mặt ngốc nghếch ấy đi, mau lên nào...", Shizuko túm cổ áo Genji xềnh xệch lôi anh dậy. Genji bao giờ cũng chiều theo ý Shizuko. "Nhưng em định câu gì?", Genji hỏi lại song Shizuko chỉ đáp nhẹ tênh: "Tượng ông hành giả bằng đá" và vẫn không rời mắt khỏi biển.
- Ông hành giả...?
"Quân chiếm đóng" (chỉ quân Mỹ vào tiếp quản Nhật Bản sau khi nước này thua trận trong Thế chiến II) vừa ném tượng ông hành giả bằng đá xuống biển vào buổi trưa nay", Shizuko nhướn mày ấm ức nói.
Trên Bãi cát Hành giả nằm ven bờ biển phía đông có một cái hang nhỏ mà người ta gọi là Động Hành giả. Trong động có một bức tượng đá của nhà tu hành En-no-Ozunu, người đã phiêu dạt tới đó vào năm 699 sau Công nguyên. Tương truyền, từ khi sinh ra, Ozunu đã tỏ ra vô cùng thông tuệ, sau khi tu luyện, ông học được chú thuật và tiền thuật, bằng những thuật này ông có thể dễ dàng sai khiến được quỷ thần. Tuy nhiên, khả năng tiên tri mà Ozunu để lộ ra đã khiến những kẻ cầm quyền hốt hoảng và rồi ông bị đày ra đảo Izu Oshima này như một tội nhân gây rối xã hội. Câu chuyện xảy ra cách đây đã gần 1300 năm. Ozunu ẩn mình trong một cái hang ven bờ biển và tiếp tục tu hành, ông truyền cho dân đảo nghề nông và nghề cá, ai ai cũng kính trọng ân đức ấy của ông. Tuy nhiên sau đó ông được tha bổng và trở về đất liền rồi lập nên giáo phái Mật tông Nhật Bản. Ông ở trên đảo Oshima khoảng ba năm và một truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày nay kể rằng, trong thời gian đó có lần ông đi một chiếc guốc sắt và bay đến tận núi Phú Sỹ. Lòng ngưỡng mộ vô hạn của dân đảo dành cho ông khiến Động Hành giả trở thành chốn linh thiêng bậc nhất ở đây và lễ hội có tên Hội Hành giả năm nào cũng được tổ chức vào ngày 15 tháng Sáu trên đảo.
Tuy nhiên, ngay sau khi cuộc chiến tranh Thái Bình Dương chấm dứt, quân chiếm đóng đã ném bức tượng đá En-no-Ozunu thờ trong Động Hành giả xuống biển để thể hiện chính sách của chúng đối với Thần giáo và Phật giáo. Hành động ấy không thể lọt qua mắt Shizuko. Với lòng tín ngưỡng sâu sắc dành cho En-no-Ozunu, Shizuko giấu mình giữa những tảng đá trên Bãi Mũi Giun, quan sát và khắc ghi thật kỹ vị trí của bức tượng đá mà tàu tuần tiễu của hải quân Mỹ đã ném xuống.
Genji không tin vào tai mình khi nghe Shizuko nói đến việc đi câu tượng hành giả. Là một ngư phủ, anh hoàn toàn tin tưởng vào tay nghề của mình, nhưng anh chưa bao giờ đi câu tượng đá. Tuy nhiên, anh không thể cự tuyệt lời thỉnh cầu của người con gái mình đang thầm yêu trộm nhớ, anh đẩy thuyền ra biển như thể đấy là cơ hội để anh làm cô phải mắc nợ mình. Và hơn hết, không có gì tuyệt diệu bằng nếu hai người được ở giữa biển vào một đêm trăng đẹp thế này.
Sau khi nhóm lửa để làm hiệu trên Bãi cát Hành giả và Bãi Mũi Giun, họ chèo thuyền ra khơi. Cả hai người đều thuộc lòng vùng biển này: đáy biển và độ sâu của nó... Thậm chí là cả những luồng cá qua lại nơi đây. Nhưng dù đêm nay trăng có tỏ đến mấy thì ánh sáng của nó cũng chẳng thể lọt tới đáy biển. Genji không biết Shizuko sẽ tìm ra bức tượng đá bằng cách nào. Genji vừa khua mái chèo vừa hỏi điều đó nhưng Shizuko không trả lời, cô chỉ nhìn về phía ánh lửa trên bãi cát để xác định vị trí thuyền. Có thể cô ước lượng bằng mắt thường khoảng cách giữa hai đốm lửa trên bờ từ ngoài khơi và áng chừng được vị trí của mình lúc này. Chèo ra được vài trăm mét thì Shizuko kêu lên: "Dừng lại đi anh!"
Shizuko đi về cuối thuyền rồi ghé sát mặt xuống biển. Cô nhìn vào làn nước tối om và ra lệnh cho Genji: "Lùi lại đằng sau!" Genji biết Shizuko chuẩn bị làm gì, ngực anh đập thình thịch. Cô đứng lên và cởi bỏ bộ kimono chấm hoa của mình. Tiếng quần áo sột soạt trên da khiến trí tưởng tượng của Genji bị kích thích mạnh, anh cảm thấy ngộp thở. Có tiếng nhảy tùm xuống biển sau lưng và bọt nước bắn lên vai, Genji len lén quay đầu lại. Shizuko búi mái tóc đen dài của mình lên bằng chiếc khăn tay. Cô bơi đứng và nhô mặt trên nước, miệng ngậm đầu của tấm lưới mắt nhỏ. Sau đó, cô nhoi hẳn lên, hớp mạnh không khí hai lần rồi lặn sâu xuống đáy.
Chắc là cô đã phải ngoi lên mặt biển vài lần để lấy hơi... Cuối cùng, khi Shizuko ngẩng đầu lên, trên miệng cô đã không còn ngậm đầu lưới nữa. "Em đã buộc chặt lưới vào bức tượng rồi, bây giờ mình kéo lên thôi", Shizuko run run nói.
Đưa người về phía mũi thuyền, Genji bắt đầu kéo lưới. Không biết Shizuko đã lên thuyền từ bao giờ, cô khoác áo, đứng sát vào với Genji và phụ anh kéo bức tượng đá lên. Hai người đặt bức tượng đá ở giữa thuyền rồi trở về bờ, nhưng trong suốt thời gian đó Genji và Shizuko không nói với nhau lời nào. Có một bầu không khí nào đó đã chặn đứng mọi câu hỏi. Genji lấy làm lạ là tại sao Shizuko lại biết được vị trí của bức tượng giữa một vùng biển tối đen như thế. Ba ngày sau, Genji hỏi thì Shizuko trả lời rằng, bức tượng ông hành giả đã gọi cô từ dưới đáy biển. Shizuko bảo, cô thấy ánh mắt màu xanh lục của bức tượng đá có thể sai khiến được quỷ thần ấy sáng lấp lánh dưới đáy nước tối om...
Từ đó về sau Shizuko thường hay kêu mệt. Trước đấy, Shizuko chưa bao giờ bị đau đầu. Nhưng những cảnh tượng mà cô chưa từng nhìn thấy càng ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong óc cô kèm theo những cơn đau nhức. Thế rồi, những cảnh tượng vụt qua ấy thể nào cũng trở thành hiện thực không lâu sau đó. Khi Genji gặng hỏi về điều này, Shizuko bảo, cô luôn cảm thấy mũi mình bị kích thích bởi mùi cam quít mỗi lần những hình ảnh về tương lai thoáng hiện lên trong não. Ngay trước khi người chị gái của Genji có chồng bên Odawara mất, cũng chính Shizuko đã báo trước về cái chết này. Song hình như cô không thể tự chủ được trong việc dự báo những sự kiện tương lai. Chỉ là một cảnh tượng nào đó vụt loé lên trong óc, không có dấu hiệu báo trước, không có gì chắc chắn rằng cô sẽ nhìn thấy cảnh tượng ấy. Vì vậy, Shizuko không bao giờ nhận lời đoán trước tương lai cho bất kỳ người nào.
Một năm sau, mặc cho sự ngăn cản của Genji, Shizuko lên Tokyo rồi quen biết với Ikuma Heihachiro và mang bầu đứa con của anh ta. Cuối năm đó, Yamamura Shizuko trở về chốn cũ, sinh ra một mụn con gái. Đứa bé ấy chính là Sadako.
Không thể biết được khi nào thì câu chuyện của ông lão Genji sẽ kết thúc. Xem cách nói ấy thì rõ là ông lão đang kết tội Ikuma Heihachiro về việc Yamamura Shizuko trầm mình xuống miệng núi lửa Mihara mười năm sau đó. Cố nhiên, đấy là tình cảm tất yếu đối với một tình địch, nhưng không dễ dàng gì khi phải nghe những câu chuyện pha lẫn hằn thù. Tuy vậy, gã cũng thu hoạch được một điều, ấy là Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako, cũng có khả năng tiên tri và kẻ cho bà ta khả năng ấy rất có thể là bức tượng đá En-no-Ozunu.